Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Ngọc đã làm việc với Cục Phổ biến, giáo dục pháp luật và Trợ giúp pháp lý về dự thảo các chính sách trong Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật (sửa đổi).
Chiều 10/12, Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Ngọc làm việc với Cục Phổ biến, giáo dục pháp luật và Trợ giúp pháp lý (Cục PBGDPL&TGPL) về dự thảo các chính sách trong Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật (sửa đổi).
Báo cáo tại cuộc họp, Phó Cục trưởng Cục PBGDPL&TGPL Phan Hồng Nguyên cho biết, qua 13 năm triển khai thi hành Luật PBGDPL, công tác PBGDPL đã nhận được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền, các ngành, các cấp từ Trung ương đến cơ sở.
Hằng năm, các Bộ, cơ quan trung ương, UBND các cấp đều ban hành kế hoạch, văn bản chỉ đạo, triển khai công tác này theo chức năng và phạm vi quản lý.
Việc hướng dẫn phổ biến, xây dựng tài liệu giới thiệu điểm mới, nội dung cơ bản của các luật, pháp lệnh mới thông qua được triển khai kịp thời, đã đi vào nền nếp.
Nguồn lực dành cho công tác PBGDPL, từ kinh phí đến con người được quan tâm hơn. Nội dung, hình thức PBGDPL đa dạng, phong phú, bám sát nhu cầu xã hội, việc ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số trong PBGDPL được chú trọng...
Bên cạnh đó, qua tổng kết thực tiễn thi hành Luật PBGDPL cho thấy, việc triển khai Luật còn một số hạn chế, khó khăn.
Cụ thể: Chưa phân định rõ trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong quản lý, triển khai công tác PBGDPL. Thực tế có một số nhóm đối tượng còn gặp khó khăn trong tiếp cận, tìm hiểu pháp luật nhưng chưa được Luật quy định thuộc đối tượng đặc thù, ưu tiên PBGDPL, để có cơ chế, chính sách và ưu tiên nguồn lực.
Luật chưa quy định rõ việc phổ biến, trang bị, cập nhập kịp thời kiến thức pháp luật bắt buộc cho cán bộ, công chức trước thực trạng hiểu biết pháp luật, ý thức và kỷ luật công vụ của một bộ phận đội ngũ này, nhất là ở cấp cơ sở còn hạn chế.
Việc xây dựng chính sách Luật PBGDPL (sửa đổi) nhằm mục đích: Giải quyết các hạn chế, khó khăn, vướng mắc do quy định của Luật đã được các Bộ, cơ quan, tổ chức ở Trung ương, địa phương phản ánh trong quá trình sơ kết, tổng kết việc thi hành Luật.
 |
| Quang cảnh buổi làm việc. |
Đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác truyền thông chính sách, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật, PBGDPL, tạo điều kiện thuận lợi cho cán bộ, công chức, người dân, doanh nghiệp trong tiếp cận, tìm hiểu pháp luật; góp phần xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân.
Theo đó, Cục PBGDPL&TGPL đề xuất 7 nhóm chính sách trong Luật PBGDPL (sửa đổi) gồm:
Chính sách 1: Phân định rõ trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong quản lý nhà nước, thực hiện PBGDPL.
Chính sách 2: Hoàn thiện cơ chế tổ chức và hoạt động của Hội đồng phối hợp PBGDPL.
Chính sách 3: Điều chỉnh đối tượng và hoàn thiện chính sách về PBGDPL cho các đối tượng đặc thù, yếu thế để không ai bị bỏ lại phía sau.
Chính sách 4: PBGDPL cho cán bộ, công chức; đổi mới GDPL trong cơ sở giáo dục, cơ sở giáo dục nghề nghiệp.
Chính sách 5: Xây dựng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu đổi mới công tác PBGDPL; huy động luật sư, luật gia, tư vấn viên pháp luật, trợ giúp viên pháp lý tham gia công tác PBGDPL.
Chính sách 6: Gắn kết truyền thông chính sách với PBGDPL; đổi mới phương thức PBGDPL thông qua ứng dụng công nghệ thông tin và các nền tảng số.
Chính sách 7: Điều chỉnh cơ chế tài chính, chính sách xã hội hóa công tác PBGDPL.
Phát biểu tại buổi làm việc, Thứ trưởng Nguyễn Thanh Ngọc thống nhất với 7 nhóm chính sách của dự thảo Luật PBGDPL (sửa đổi) được đề xuất.
Cho ý kiến vào các nhóm chính sách, Thứ trưởng nêu rõ, về chính sách phân định rõ trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong quản lý nhà nước, thực hiện PBGDPL.
Đây là nội dung quan trọng do đó cần quy định cụ thể trách nhiệm của các bên từ trung ương, Bộ, ngành; chính quyền địa phương; Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức xã hội nghề nghiệp.
Đối với chính sách hoàn thiện cơ chế tổ chức và hoạt động của Hội đồng phối hợp PBGDPL, Thứ trưởng cho rằng, để bảo đảm phù hợp với việc tổ chức, vận hành mô hình chính quyền địa phương 2 cấp cần tập trung đánh giá ưu, nhược điểm của từng giải pháp để có lựa chọn phù hợp, bảo đảm tính khả thi, hiệu quả.