Vụ tranh chấp dân sự mà phía nguyên đơn là gia đình ông Tạ Huy Tình đã được hai cấp Toà của tỉnh Bắc Ninh (cũ) xét xử, thi hành án xong, thì bị VKS Cấp cao kháng nghị.
Cho rằng kháng nghị không đúng căn cứ pháp luật, Ủy ban Thẩm phán TAND tỉnh Bắc Ninh (cũ) đã có Văn bản số 789 gửi Ủy ban Thẩm phán TAND Cấp cao tại Hà Nội, phân tích thấu đáo các vấn đề pháp lý của vụ án và đề nghị TAND Cấp cao tại Hà Nội tuyên bác kháng nghị, giữ nguyên quyết định của bản án phúc thẩm.
Tuy nhiên, tại quyết định Giám đốc thẩm số 66/2024/DS-GĐT ngày 21/11/2024, TAND Cấp cao tại Hà Nội vẫn tuyên hủy bản án phúc thẩm, huỷ án sơ thẩm, giao hồ sơ vụ án về cấp sơ thẩm xét xử lại từ đầu, đưa vụ tranh chấp về điểm xuất phát và khiến gia đình anh Tạ Huy Thành đối mặt với nỗi lo mất tài sản.
Nội dung vụ án
Theo hồ sơ vụ án, phía nguyên đơn trình bày: Năm 2007, gia đình ông Tạ Huy Tình bà Nguyễn Thị Lựu mua của vợ chồng ông Tạ Huy Tể (là em trai ông Tình), hai thửa đất số 460 và 461, tờ bản đồ số 04, tổng diện tích gần 527,1m2 tại thôn Kim Tháp, xã Nguyệt Đức, huyện Thuận Thành cũ, tỉnh Bắc Ninh (nay là phường Ninh Xá, tỉnh Bắc Ninh). “Sổ đỏ” cấp cho chủ sở hữu là ông Tạ Huy Tình và anh Tạ Huy Thành.
 |
| Bản án phúc thẩm tuyên chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Tình và yêu cầu độc lập của anh Thành. |
Vì là anh em ruột, tin tưởng nhau nên việc mua bán không làm giấy tờ, các thủ tục pháp lý tách thửa, cấp sổ đều do ông Tể làm. Năm 2011, ông Tể gọi ông Tình về kê khai làm thủ tục điều chỉnh diện tích sổ đỏ, sổ đỏ cấp đổi tiếp tục mang tên ông Tình và anh Thành.
Khoảng năm 2013-2014, thấy vợ chồng người cháu là chị Hiền - anh Liệu (con ông Tạ Huy Tang, ông Tang là em trai ông Tình) xây dựng nhà cửa, công trình nên ông Tình có hỏi ông Tể thì ông Tể nói đất của ông Tình ở chỗ khác nên ông Tình không có ý kiến gì. Năm 2018, thấy vợ chồng chị Hiền tiếp tục xây lán để xe, ông Tình đi kiểm tra thực địa thì mới biết hai thửa đất 460 và 461 của cha con ông hiện có nhà cửa, công trình của gia đình chị Hiền đang sử dụng.
Sau đó, vợ chồng ông Tình đứng nguyên đơn khởi kiện đòi lại đất đối với vợ chồng chị Hiền - anh Liệu; anh Thành cũng khởi kiện đòi đất với tư cách người có quyền nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập.
 |
| Hai Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất mang tên ông Tạ Huy Tình và ông Tạ Huy Thành |
Phía bị đơn - vợ chồng chị Hiền, anh Liệu trình bày: Năm 2009 vợ chồng họ chuyển về sinh sống tại ngôi nhà trên thửa đất số 460 do bố chị Hiền là ông Tạ Huy Tang xây năm 2008. Về nguồn gốc đất thì chị không biết. Quá trình gia đình chị sinh sống không có ai tranh chấp, ý kiến. Đến năm 2018 chị mượn thửa đất bên cạnh của ông Tể để xây lán thì bị ông Tình cho rằng đất của vợ chồng ông Tình. Vợ chồng chị không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của ông Tình - bà Lựu; không đồng ý với yêu cầu độc lập của anh Thành.
Lời khai ông Tạ Hữu Tang cho rằng đất là của vợ chồng ông Tể, ông Tình và anh Thành chỉ đứng tên hộ. Ông Tang khai, năm 2002 - 2003 ông có gửi ông Tình 900 triệu đồng mua đất (không viết giấy tờ gì). Ông Tình không mua được, cũng không trả lại tiền. Đến năm 2007, trong cuộc họp toàn thể gia đình, ông Tình có nhờ các chị em ruột nói giúp ông Tể bán cho ông Tình một lô đất để ông Tình trả cho ông Tang, ông Tể đồng ý. Sau đó, ông Tể giao đất cho ông Tang nhưng chưa làm thủ tục sang tên và ông Tang cũng không biết lô đất đứng tên ai. Năm 2008, ông Tang làm nhà cho vợ chồng chị Hiền. Quá trình xây nhà, tất cả các anh chị em đều biết và không có ý kiến gì. Đến năm 2018, chị Hiền xây lán để xe mới xảy ra tranh chấp. Cho rằng đất này là ông Tình mua của ông Tể để trả cho ông Tang vào năm 2007, ông Tang không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của ông Tình.
Lời khai của vợ chồng ông Tể - bà Bẩy cơ bản đồng ý với nội dung ông Tang khai. Theo vợ chồng ông Tể trình bày, năm 1992 vợ chồng ông mua thửa đất ao diện tích gần 2000m2 của HTX, năm 1997 đất được cấp quyền sử dụng đứng tên bà Bẩy. Năm 2007, ông làm thủ tục tách thành 5 thửa đất ở. Ngoài 3 thửa đứng tên vợ chồng ông và con gái, ông còn cho ông Tình và anh Thành đứng tên hộ thửa đất 460, 461, chứ không phải mua bán. Ông Tể cũng không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của ông Tình, không đồng ý với yêu cầu độc lập của anh Thành.
Nhận định của Toà về tính pháp lý của các chứng cứ, lời khai
Tại bản án sơ thẩm số 03/2022/DS-ST ngày 19/4/2022, TAND huyện Thuận Thành nhận định rằng ông Tề (người bán) không công nhận việc chuyển nhượng; việc cấp “sổ đỏ” cho ông Tình và anh Thành là sai luật, do đất có nguồn gốc là đất ao bán trái thẩm quyền từ năm 1992, chưa được chuyển mục đích sử dụng. Từ đó bản án tuyên bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Tình và yêu cầu độc lập của anh Thành.
Không đồng tình, ông Tình và anh Thành kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm. Tại Bản án phúc thẩm ngày 15/8/2022, TAND tỉnh Bắc Ninh nhận định: có căn cứ xác định đã có thỏa thuận chuyển nhượng giữa ông Tề, bà Bẩy cho ông Tình, anh Thành. Lý do: việc ông Tể cho rằng cho ông Tình và anh Thành đứng tên hộ là không thuyết phục, không có căn cứ.
Trong hồ sơ vụ án, vợ chồng ông Tể không xuất trình được chứng cứ nào về việc nhờ ông Tình và anh Thành đứng tên hộ trong “sổ đỏ” hai thửa đất. Khi đó các con ruột của ông Tể đều đã trưởng thành, hoàn toàn có thể đứng tên; gia đình ông Tể ngoài ông Tình thì còn nhiều anh em, cháu ruột khác. Nếu có việc ông Tể cho ông Tình và anh Thành đứng tên hộ, đến năm 2011, khi ông Tình và anh Thành làm thủ tục cấp đổi sổ đỏ (để điều chỉnh diện tích), thì ông Tể phải có ý kiến; nhưng thực tế ông Tể và gia đình vẫn tiếp tục để ông Tình, anh Thành đứng chủ sở hữu trong sổ đỏ cấp đổi.
Về tình tiết ông Tể và ông Tang khai năm 2006 ông Tể có thuê ông Tang san lấp ao, có lập hợp đồng. Tuy nhiên, theo nội dung Biên bản làm việc ngày 7/1/2009 giữa Phòng Tài nguyên - Môi trường huyện Thuận Thành, UBND xã Nguyệt Đức với ông Tình, anh Thành có nội dung thể hiện: “UBND xã Nguyệt Đức cho biết việc san lấp mặt bằng thửa ao là do ông Tình thực hiện trước năm 2007 (trước thời điểm ông Tình, anh Thành được cấp sổ đỏ 2 thửa đất). Việc này phù hợp với nội dung nhận tiền trong Giấy thanh toán ngày 15/12/2006 gia đình ông Tình có bỏ tiền ra thuê người san lấp ao của gia đình ông Tể. Chứng cứ này phù hợp với lời khai ông Tình bỏ tiền mua đất của ông Tể và diễn biến năm 2007 ông Tể làm thủ tục sang tên 2 thửa đất cho cha con ông Tình… Từ đó, HĐXX phúc thẩm nhận định việc ông Tể, ông Tang khai san lấp ao là không có căn cứ.
Về lời khai của ông Tang cho rằng gửi tiền nhờ ông Tình mua 3 lô đất, không mua được nhưng ông Tình không trả lại, sau đó đã họp toàn thể anh chị em ruột để giải quyết và thống nhất đề nghị ông Tể tạm ứng cho vợ chồng chị Hiền một lô đất để xây nhà, sau đó ông Tình sẽ chịu trách nhiệm thanh toán lô đất đó. Tuy nhiên, hồ sơ vụ án chỉ thể hiện duy nhất Biên bản họp gia đình ngày 5/11/2011 tại nhà ông Tình, với sự tham gia của vợ chồng ông Tình, vợ chồng ông Tang và vợ chồng ông Tể đi đến thống nhất: vợ chồng ông Tể bà Bẩy trả cho ông Tình - bà Lựu 3 (ba miếng đất + cả Hiền), ông Tình - bà Lựu sẽ trả ông Tể bà Bẩy 500 triệu đồng chẵn; và ông Tể sẽ phải làm thủ tục cấp sổ đỏ cho cả 3 miếng đất đó. Biên bản có chữ ký xác nhận của ông Tang - bà Bắc, ông Tình - bà Lựu và ông Tể.
Bản án phúc thẩm (tại trang 16) nhận định, mặc dù thoả thuận chuyển nhượng giữa các đương sự là chưa bảo đảm, phía ông Tình và anh Thành chưa đưa ra được hợp đồng chuyển nhượng bằng văn bản với gia đình ông Tể nhưng qua các chứng cứ, tình tiết khách quan thể hiện có căn cứ về việc chuyển quyền sử dụng đất giữ ông Tể - bà Bẩy với ông Tình, anh Thành 2 thửa đất số 460, 461 tờ bản đồ số 4.
Từ những phân tích căn cứ pháp lý xác đáng, thuyết phục nêu trên, HĐXX phúc thẩm TAND tỉnh Bắc Ninh (cũ) tuyên chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Tình và yêu cầu độc lập của anh Thành, buộc gia đình chị Hiền - anh Liệu trả lại đất cho ông Tình và anh Thành; bản án cũng tuyên gia đình ông Tình, anh Thành có nghĩa vụ thanh toán cho vợ chồng chị Hiền giá trị các công trình trên đất.
Sau khi án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật gần 1 năm, ngày 01/08/2023 Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thuận Thành tiến hành cưỡng chế và bàn giao tài sản cho gia đình ông Tình, ông Thành.
Vì sao Ủy ban Thẩm phán TAND tỉnh Bắc Ninh phải gửi kiến nghị lên Tòa án Cấp cao?
Nhưng chỉ hơn 2 tuần sau khi vụ án thi hành xong xuôi, ngày 17/8/2023, VKSND Cấp cao tại Hà Nội đã ký Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 31 đối với bản án phúc thẩm trên cơ sở 3 nội dung chính cho rằng chưa xác đáng: về nguồn gốc thửa đất, về hợp đồng chuyển nhượng các thửa đất tranh chấp và về thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử đất… Từ đó kháng nghị đề nghị huỷ bản án phúc thẩm, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Không đồng tình, ngày 31/08/2023, Ủy Ban thẩm phán TAND tỉnh Bắc Ninh đã có Văn bản số 789/2023/KN-TA, với các căn cứ pháp lý chứng minh việc kháng nghị là không có cơ sở, đề nghị TAND Cấp cao tại Hà Nội bác kháng nghị, giữ nguyên các quyết định của bản án phúc thẩm.
 |
| Văn bản số 789 của Ủy ban Thẩm phán TAND tỉnh Bắc Ninh (cũ) kiến nghị bác kháng nghị, giữ nguyên bản án phúc thẩm. |
Nội dung Văn bản 789 của Ủy ban Thẩm phán TAND tỉnh Bắc Ninh (tại trang 8 và trang 9) đã phân tích 03 căn cứ pháp lý chính khẳng định bản án phúc thẩm có căn cứ, đúng pháp luật, như sau:
Thứ nhất, việc thu hồi GCNQSDĐ các thửa đất 450, 461 cấp lần đầu năm 2007, cấp đổi 2011 là do không làm thủ tục chuyển đổi mục đích sử dụng cũng như không thực hiện nghĩa vụ tài chính. Lỗi này hoàn toàn do chính quyền địa phương các cấp. Quá trình tố tụng, không có đương sự nào có yêu cầu huỷ sổ đỏ, nên việc huỷ GCNQSDĐ không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án.
Thứ hai, ông Tình, anh Thành nhận chuyển quyền sử dụng đất năm 2007, cấp đổi năm 2011, như vậy phải áp dụng Luật Đất đai 2003 để xác định ông Tình, anh Thành có là chủ sử dụng hợp pháp của 2 thửa 460, 461 hay không? Theo quy định tại Điều 50 Luật Đất đai 2003: GCNQSDĐ chỉ là một trong các giấy tờ hợp pháp để công nhận chủ sử dụng hợp pháp thửa đất quy định tại điểm b, c Khoản 1 Điều 50 Luật Đất đai 2003.
Tại hồ sơ địa chính: chủ sử dụng có tên là ông Tình, anh Thành (theo Điều 18 Nghị định 43/2014).
Trong các giấy tờ được lập trong quá trình thực hiện đăng ký ruộng đất theo Chỉ thị 299/TTg ngày 10/11/1980 của Thủ tướng Chính phủ về công tác đo đạc, phân hạng và đăng ký thống kê ruộng đất trong cả nước do cơ quan nhà nước quản lý.
- Năm 2011, ông Tình, anh Thành có đơn xin cấp đổi sổ có xác nhận của UBND xã Nguyệt Đức về quyền sử dụng đất của ông Tình, anh Thành.
- Đơn xin cấp đổi mẫu của Tổng cục Địa chính có xác nhận của nhiều ngày thành phần như: địa chính, Uỷ ban, Văn phòng đăng ký nhà đất xác nhận về nguồn gốc đủ điều kiện cấp đổi sổ.
- Biên bản xác minh nguồn gốc thửa đất có xác nhận của nhiều thành phần: địa chính, Ủy ban, Văn phòng đăng ký nhà đất xác nhận việc chuyển quyền sử dụng đất cho ông Tình, anh Thành. Và từ năm 2007 đến nay ông tỉnh anh Thành đã sàn lớp mặt bằng đóng thuế đầy đủ với nhà nước. Như vậy ông tình anh Thành là chủ sử dụng hợp pháp thửa đất 460, 461.
Thứ ba, căn cứ Điều 82 Nghị định 43/2014 của Chính phủ quy định mặc dù đã thu hồi GCNQSDĐ nhưng ông Tình, anh Thành hoàn toàn làm thủ tục cấp lại GCN mà không phải làm thủ tục chuyển quyền.
Với những căn cứ nêu trên đã xác định được ông Tình, anh Thành là chủ sử dụng hợp pháp thửa đất 460, 461 và từ đó yêu cầu khởi kiện của ông Tình, anh Thành là có căn cứ được chấp nhận.
Tuy nhiên, ngày 21/11/2024, Ủy ban thẩm phán TAND Cấp cao tại Hà Nội vẫn chấp nhận một phần nội dung kháng nghị. Quyết định giám đốc thẩm số 66/2024/DS-GĐT, nhận định: Đất tranh chấp (thửa 460 và 461) được tách từ đất ao mà UBND xã Nguyệt Đức (cũ) bán trái thẩm quyền cho ông Tề năm 1992. Tòa phúc thẩm công nhận việc chuyển nhượng nhưng lại không có hợp đồng chuyển nhượng hợp pháp. Việc cấp GCNQSDĐ cho ông Tình, anh Thành không chứng minh việc chuyển nhượng, vì ông Tề, bà Bẩy không công nhận.
Quyết định giám đốc thẩm tuyên hủy Bản án phúc thẩm, huỷ bản án sơ thẩm, trả hồ sơ vụ án về cho TAND huyện Thuận Thành (nay là TAND khu vực 9 - Bắc Ninh) giải quyết lại.
Chờ đợi phán quyết công tâm
Anh Tạ Huy Thành bày tỏ sự không “tâm phục, khẩu phục” với các quyết định giám đốc thẩm; anh cho rằng các quyết định này không đúng căn cứ pháp lý lẫn đạo lý. Anh Thành cho biết, cha anh - ông Tạ Huy Tình, một thương binh 2/4 những tưởng đã chạm tay vào công lý, đến khi vụ án bị giám đốc xử huỷ với căn cứ không thuyết phục, ông quá uất ức nên sinh tâm bệnh rồi qua đời.
 |
| Giấy chứng nhận của cố thương binh Tạ Huy Tình. |
Ông Thành cũng đề nghị Chánh án TAND tỉnh Bắc Ninh, Chánh án Tòa án nhân dân khu vực 9 - Bắc Ninh và Thẩm phán được phân công giải quyết lại vụ án chỉ đạo xem xét, giải quyết vụ án một cách khách quan, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho gia đình ông theo đúng tinh thần của TAND tỉnh Bắc Ninh tại Văn bản số 789/2023/KN-TA đã chỉ ra trước đó.
Được biết, phiên toà sơ thẩm xét xử lại vụ án vào ngày 25/9/2025 vừa qua đã bị hoãn. Người dân đang chờ đợi phán quyết công tâm của TAND Khu vực 9 - Bắc Ninh, để bảo đảm vụ án được xét xử khách quan, đúng pháp luật.