Vụ án Trần Thị Thủy cùng Nguyễn Thọ Lập bị truy tố và bắt tạm giam về tội lừa đảo chiếm đoạt số tiền gần 25 tỷ đồng đang thu hút được sự quan tâm của dư luận bởi nhiều lý do. Đáng nói hơn cả là việc những người có quan hệ giao dịch dân sự với Thủy cũng bị truy tố về tội “Che giấu tội phạm”.
Theo cáo trạng số 67/CT-VKS-P3 của Viện KSND tỉnh Hưng Yên, thì Trần Thị Thuỷ (SN 1989, trú tại huyện Tiên Lữ, tỉnh Hưng Yên) bị truy tố về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo điểm a, khoản 4, Điều 174 Bộ luật Hình sự.
Theo kết luận của cáo trạng này, để có tiền trả cho các khoản vay và khoản nợ từ trước, cũng như để sử dụng chi tiêu cá nhân, trong khoảng thời gian từ năm 2015 đến năm 2024, Thuỷ đã có hành vi đưa ra thông tin gian dối về việc bản thân sở hữu một số thửa đất ở khu vực huyện Tiên Lữ, huyện Văn Giang, thành phố Hưng Yên, thị xã Mỹ Hào…và một số thủ đoạn khác để chiếm đoạt tổng số tiền hơn 24 tỉ đồng của 6 bị hại thông qua hợp đồng chuyển nhượng hoặc hợp đồng thế chấp các khoản vay.
Trong số tiền hơn 24 tỉ đồng, thì bị hại là vợ chồng chị Nguyễn Thị Huệ bị Thuỷ lừa đảo số tiền hơn 4,8 tỷ đồng.
Đáng nói, trước đây, Thủy đã từng bị xử phạt 3 năm tù nhưng được hưởng án treo cũng vì tội danh này.
Và khi thực hiện hành vi lừa đảo này, Thuỷ vẫn đang trong thời gian chấp hành án.
Ngoài Thuỷ được xác định là có vai trò chính trong vụ án, còn có Nguyễn Thọ Lập, nguyên cán bộ Công an huyện Tiên Lữ, tỉnh Hưng Yên, cũng bị truy tố về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.
Không những vậy, vợ chồng ông Hoàng Văn Hải – bà Nguyễn Thị Tiệp là chủ của một số thửa đất cũng bị Thuỷ kéo vào vòng lao lý.
Theo tài liệu trong vụ án, trước năm 2022, Thuỷ và Lập đã mua một số đất của vợ chồng ông Hải, bà Tiệp nhưng chưa trả hết tiền.
Thuỷ và Lập còn nợ số tiền mua đất của vợ chồng ông Hải, bà Tiệp là hơn 3 tỷ đồng.
Đến tháng 11/2022, để bị hại là chị Nguyễn Thị Huệ không giục đòi tiền và tiếp tục chiếm đoạt tiền của chị Huệ, Thủy và Lập đã thông đồng đưa ra thông tin gian dối rằng hai người có toàn quyền quyết định việc mua bán đối với 02 thửa đất số 150 và 151, Tờ bản đồ số 27, tại phường Hiến Nam, thành phố Hưng Yên.
Đây là 2 trong số 5 thửa đất mà trước năm 2022 Thuỷ và Lập đã mua của vợ chồng ông Hải, bà Tiệp nhưng chưa trả hết tiền như đã nói ở trên.
Để lừa dối chị Huệ, Thủy và Lập đã 'nổ' rằng mua cả 5 thửa nhưng còn nợ hơn 3 tỷ đồng.
Thủy đề nghị chị Huệ tìm người mua 2 thửa với điều kiện đặt cọc trước 3 tỷ đồng để lấy tiền trả nợ cho vợ chồng ông Hải, bà Tiệp.
Sau khi trả hết nợ, vợ chồng ông Hải sẽ sang tên toàn bộ 5 thửa cho Lập, để Lập bán lại 2 thửa cho khách của chị Huệ; còn 3 thửa còn lại sẽ được Thủy thế chấp ngân hàng.
Để tạo lòng tin, Thủy gửi chị Huệ ảnh sổ đỏ và hợp đồng chuyển nhượng đất từ vợ chồng ông Hải sang tên Lập (chưa công chứng).
Khi chị Huệ tìm được khách mua, Thủy viện cớ giá thấp để từ chối bán, dù thực tế cô ta không có quyền sở hữu đất.
Thủy tiếp tục nhờ Lập thuyết phục vợ chồng chị Huệ chuyển tiền, và Lập cam kết trước chị Huệ rằng mình là người giao dịch trực tiếp, không có vướng mắc pháp lý, và chỉ cần trả nốt hơn 3 tỷ cho ông bà Hải là có thể sang tên đất.
Vợ chồng chị Huệ tin tưởng và chuyển 1,7 tỷ đồng cho Lập.
Sau đó, Thủy chủ động liên hệ bà Tiệp, đề nghị ông bà ký trước các hợp đồng chuyển nhượng đất cho Lập để “tạo lòng tin” nhằm vay tiền của chị Huệ trả nợ – và được đồng ý.
Chiều 28/11/2022, các bên gặp mặt tại nhà ông bà Hải để giao tiền, ký hợp đồng.
Theo cáo trạng, tại đây, ông bà Hải xác nhận Thủy – Lập đang mua đất và còn thiếu hơn 3 tỷ, nếu trả đủ sẽ ký chuyển nhượng.
Tin tưởng, chị Huệ chuyển tiếp 1,4 tỷ đồng cho Lập, người này sau đó chuyển trả nợ cho bà Tiệp.
Sau cùng, các bên ký hợp đồng, Thủy đã nhận hơn 3,8 tỷ đồng tiền đặt cọc để bán 2 thửa đất đứng tên vợ chồng ông Hải, bà Tiệp cho vợ chồng chị Huệ – dù thực tế Thủy không có quyền định đoạt các thửa đất này.
Cáo trạng cho rằng, ông bà Hải - Tiệp đã hỗ trợ Thủy hợp thức hóa một số hợp đồng chuyển nhượng, đóng vai trò nhân chứng, tạo dựng lòng tin với bị hại, từ đó giúp che giấu hành vi phạm tội của Thuỷ và Lập.
Cần đánh giá khách quan, thận trọng việc truy tố
Sau khi bị truy tố với tội danh “Che giấu tội phạm”, vợ chồng ông Hải – bà Tiệp đã có đơn kêu oan gửi đến các cơ quan tiến hành tố tụng, cơ quan báo chí khẳng định không biết, không tham gia, không giúp sức và cũng không hưởng lợi gì từ hành vi của Thủy và Lập.
Trao đổi với phóng viên báo PLVN, vợ chồng ông Hải, bà Tiệp cho biết: “Trong quá trình phối hợp giải quyết vụ án, chúng tôi rất tích cực hợp tác với Cơ quan cảnh sát điều tra – Công an tỉnh Hưng Yên, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hưng Yên để sớm làm rõ nội dung vụ án.
Tuy nhiên, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hưng Yên vẫn truy cứu trách nhiệm hình sự chúng tôi, mặc dù hồ sơ vụ án hoàn toàn không có căn cứ để buộc tội chúng tôi, chúng tôi cũng đã cố gắng đưa ra các căn cứ, bằng chứng chứng minh sự trong sạch của mình.
Bản Cáo trạng đã đánh giá sai hành vi của chúng tôi, không phù hợp với quy định của pháp luật, cố tình truy cứu trách nhiệm hình sự đối với chúng tôi, dù chúng tôi chỉ thực hiện các giao dịch dân sự thông thường mà Bộ luật dân sự quy định.”
Cụ thể, theo trình bày của vợ chồng ông Hải, bà Tiệp, bản thân hai vợ chông ông bà không thực hiện hành vi che giấu tội phạm vì không biết và cũng không có đủ điều kiện để biết Thủy thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản của người khác.
Đánh giá về vụ án, Tiến sỹ Đào Trung Hiếu, Nhà nghiên cứu Tội phạm học cho rằng cần đánh giá thận trọng, khách quan về việc truy tố ông Hải, bà Tiệp.
“Một trong những vấn đề pháp lý cần xem xét trong vụ án này là các cơ quan tiến hành tố tụng cần xác định đúng về khách thể bị xâm hại của tội “Che giấu tội phạm”, từ đó mới có căn cứ định tội danh đối với ông Hoàng Văn Hải và bà Nguyễn Thị Tiệp” – Tiến sỹ Hiếu chia sẻ.
 |
| Tiến sỹ Đào Trung Hiếu - Chuyên gia nghiên cứu tội phạm học. |
Theo Tiến sỹ Hiếu, khoa học luật hình sự và quy định của Điều 389 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi 2017), khách thể của tội “Che giấu tội phạm” là trật tự an toàn xã hội và hoạt động đúng đắn của cơ quan tư pháp hình sự.
Chỉ khi nào một người có hành vi cản trở hoặc gây nguy cơ cản trở việc phát hiện, điều tra và xử lý một hành vi phạm tội đã xảy ra, thì mới cấu thành tội này.
Tuy nhiên, trong vụ việc này, ông Hải, bà Tiệp không giúp người phạm tội bỏ trốn; Không tiêu hủy, tẩu tán vật chứng, không khai báo gian dối, không tiếp tay xóa dấu vết.
Và quan trọng hơn ông Hải, bà Tiệp không hề biết, không có điều kiện để biết hành vi phạm tội đã xảy ra.
Việc ông bà Hải - Tiệp tham gia một giao dịch dân sự với người quen (là bà Thủy và ông Lập) và nhận tiền trả nợ từ khoản nợ mua bán đất trước đó, hoàn toàn không tác động gì đến khả năng điều tra, truy tố hoặc xét xử của cơ quan tố tụng.
Điều quan trọng khác đó là tính đến thời điểm ông Hải, bà Tiệp nhận tiền trả nợ của Thủy - Lập, thì giao dịch giữa Thủy - Lập với bà Huệ chưa được xác định là tội phạm.
Nghĩa là lúc này, Thủy Lập chưa bị khởi tố bị can về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Thậm chí chưa có đơn tố cáo họ.
Theo lý luận tội phạm, khi mà tội phạm gốc chưa hình thành, thì không thể có tội phạm phái sinh - tức là hành vi "Che giấu tội phạm”.
Tiến sỹ Hiếu nhấn mạnh: “Nếu khách thể không bị xâm phạm, thì tội phạm không thể cấu thành về mặt pháp lý.
Việc không xác định đúng khách thể bị xâm hại dẫn đến hậu quả là điều tra, truy tố sai người không có tội, làm ảnh hưởng đến danh dự, quyền công dân và niềm tin vào công lý.”
Còn theo chia sẻ của Luật sư Nguyễn Thị Tâm - Đoàn luật sư TP Hà Nội, là người tham gia bào chữa cho bị can Hoàng Văn Hải và Nguyễn Thị Tiệp, trong vụ án này thì: “Sau khi nghiên cứu hồ sơ vụ án, cáo trạng và quá trình tố tụng, tôi nhận thấy: việc truy tố ông Hoàng Văn Hải và bà Nguyễn Thị Tiệp về tội “Che giấu tội phạm” (Điều 389 BLHS) là không có căn cứ pháp lý vững chắc, có dấu hiệu hình sự hóa quan hệ dân sự, tiềm ẩn nguy cơ gây oan sai.”
Luật sư Tâm phân tích: Thứ nhất, hành vi không thỏa mãn yếu tố cấu thành tội vì không có bằng chứng cho thấy ông bà Hải – Tiệp biết rõ hành vi lừa đảo của Thủy tại thời điểm nhận tiền.
Không có hành vi khách quan như giúp người phạm tội bỏ trốn, tiêu hủy chứng cứ, khai gian, gây cản trở tố tụng.
Việc nhận tiền là để thanh toán một giao dịch dân sự đã được thỏa thuận, có công chứng, có dấu hiệu ngay tình.
Thứ hai, không xác lập được yếu tố lỗi cố ý. Toàn bộ lời khai buộc tội chỉ đến từ bà Thủy – người đang là bị can chính trong vụ án.
Cơ quan điều tra chưa tổ chức đối chất, đối chiếu chứng cứ, chưa xác minh độc lập.
Như vậy, không đủ cơ sở khẳng định bị can Hải – Tiệp “biết rõ” hành vi phạm tội của Thủy mà vẫn giúp sức.
Thứ ba, không có căn cứ xác định khách thể bị xâm phạm. Tội “che giấu tội phạm” chỉ cấu thành khi hành vi bị cáo xâm phạm đến hoạt động điều tra, truy tố, xét xử.
Trong trường hợp này, ông bà Hải – Tiệp không gây cản trở tiến trình tố tụng, không tẩu tán tài sản, thậm chí đã chủ động hợp tác làm việc với cơ quan điều tra.
Thứ tư, có dấu hiệu vi phạm nguyên tắc suy đoán vô tội.
Không thể chỉ dựa vào suy đoán và lời khai một phía để truy tố công dân về tội hình sự.
Việc không chứng minh được đầy đủ các yếu tố cấu thành tội danh, không đủ chứng cứ khách quan buộc phải dẫn đến kết luận: Hành vi của ông bà Hải – Tiệp không cấu thành tội phạm.
Từ các phân tích nêu trên, luật sư Tâm cho rằng, các cơ quan tố tụng nên đánh giá lại vụ án một cách cẩn trọng, khách quan, tránh gây oan sai.