“Trong giai đoạn vừa qua đã có 158 văn bản quy phạm pháp luật về an toàn thực phẩm (ATTP) được ban hành nhưng các văn bản này thiếu tính ổn định dẫn đến khó triển khai thực hiện; thậm chí có sự đan xen chồng chéo và thiếu cơ chế phối hợp cũng như không phân định rõ ngành nào chịu trách nhiệm quản lý chính…”.
|
Ảnh minh họa. |
Đó là nhận định của đại biểu Quốc hội trước thực trạng thừa quy định nhưng lại thiếu chế tài cụ thể, rõ ràng trong lĩnh vực vệ sinh, ATTP của nước ta hiện nay.
Quy định chồng chéo, chưa phù hợp
Theo Báo cáo của Ủy ban Thường vụ Quốc hội (UBTVQH) về việc thực hiện chính sách, pháp luật về ATTP giai đoạn 2011 - 2016 được công bố tại kỳ họp QH vừa qua, các văn bản chính sách pháp luật về ATTP đã được ban hành tương đối đầy đủ và kịp thời; từng bước đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước về ATTP.
Trong khi đó, đánh giá của Đoàn giám sát của QH cũng cho hay, nội dung các văn bản đã ban hành về cơ bản đã thể chế hóa được các chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước về ATTP; nội luật hóa các điều ước, hiệp định quốc tế mà Việt Nam ký kết tham gia, thống nhất và đồng bộ với hệ thống pháp luật hiện hành…
Tuy vậy, Báo cáo cũng chỉ ra rằng, các văn bản ban hành nhiều nhưng chưa được hệ thống hóa, gây khó khăn cho việc áp dụng Luật. Ví dụ, về sản xuất, kinh doanh sữa chế biến dạng lỏng phải áp dụng không dưới 25 văn bản quy phạm pháp luật, trong đó có 6 Luật, 6 Nghị định, 13 thông tư hướng dẫn, liên quan đến 9 thủ tục hành chính, 5 cơ quan quản lý nhà nước chưa kể đến các lĩnh vực khác như xử lý vi phạm hành chính, quản lý thị trường, môi trường…
Quy định trong Luật ATTP về truy xuất nguồn gốc thực phẩm, quy định về điều kiện sản xuất kinh doanh thực phẩm nhỏ lẻ chưa bảo đảm tính khả thi, quy định về kiểm tra thực phẩm nhập khẩu đối với tất cả lô hàng nhập khẩu chưa phù hợp với thực tế.
Bên cạnh đó, một số quy định về phân công trách nhiệm quản lý nhà nước liên quan đến ATTP còn chồng chéo, chưa rõ ràng; một số lĩnh vực quản lý thiếu quy định hướng dẫn cụ thể. Luật ATTP đã thu gọn đầu mối quản lý ATTP từ 5 bộ xuống còn 3 bộ chịu trách nhiệm chính trong quản lý ATTP, gồm Bộ Y tế, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT), Bộ Công Thương và có sự phân công cụ thể trách nhiệm quản lý ATTP của các bộ đối với từng nhóm sản phẩm.
Tuy nhiên, các quy định này còn chưa phù hợp trong quản lý các sản phẩm “giao thoa” giữa các bộ hoặc giữa các bộ và địa phương, một số nội dung còn thiếu rõ ràng; một số lĩnh vực quản lý còn thiếu hướng dẫn cụ thể.
Ví dụ cụ thể cho hiện tượng cắt khúc, phân đoạn trong việc quản lý tạo nhiều khoảng trống chưa được xử lý có hiệu quả, khiến thực phẩm vẫn không an toàn và người dân phải chịu hậu quả được ĐB Phạm Trọng Nhân (Bình Dương) chỉ rõ: với sợi bún, nguyên liệu là bột gạo do Bộ NN&PTNT quản lý, sản phẩm tinh bột thì thuộc Bộ Công Thương. Nếu sản phẩm bún bán ra thị trường chứa chất tinopal gây hậu quả cho người tiêu dùng thì trách nhiệm quản lý thuộc Bộ Y tế. Tương tự với chiếc bánh trung thu, nhãn bánh và bao bì do Bộ Công Thương quản lý; nhân bánh là trứng thì thuộc Bộ NN&PTNT còn các chất phụ gia là của Bộ Y tế.
Rà soát, điều chỉnh cho đồng bộ
Tại hội thảo “Thực thi Nghị quyết 19: Cải cách các quy định về quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa và ATTP” do Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) phối hợp với Dự án Quản trị Nhà nước nhằm tăng tưởng toàn diện (GIG) của USAID tổ chức mới đây, các đại biểu cũng chỉ ra rằng các quy định về quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa và ATTP Việt Nam hiện nay rất chồng chéo, thường đi vào tiểu tiết, dẫn đến “quản” nhiều nhưng hiệu quả thực tế không cao.
Chẳng hạn, chỉ tính riêng về nguyên liệu, một sản phẩm đang sản xuất tại Việt Nam đã phải “cõng” hàng chục giấy phép con, với tổng thời gian xin phép kéo dài, dẫn đến tốn kém hàng triệu USD, thậm chí làm mất cơ hội kinh doanh của doanh nghiệp.
Trong bối cảnh như vậy, nhiều người hy vọng vào việc Nghị quyết về đẩy mạnh việc thực hiện chính sách pháp luật về ATTP giai đoạn 2016 – 2020 mà QH vừa qua thông qua sẽ giúp khắc phục được những chồng chéo, bất cập hiện nay.
Theo đó, Nghị quyết nêu rõ, để khắc phục những tồn tại, yếu kém, đẩy mạnh thực hiện chính sách pháp luật về ATTP, trong giai đoạn 2016 - 2020, QH giao Chính phủ khẩn trương rà soát hệ thống văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến ATTP để sớm trình QH sửa đổi, bổ sung các luật có liên quan theo hướng quy định rõ các điều cấm và tăng chế tài xử lý; khắc phục tình trạng chồng chéo, không rõ trách nhiệm trong phân công quản lý ATTP; tăng cường hiệu lực, hiệu quả thực thi pháp luật.
Nghị quyết đặt mục tiêu đến hết năm 2020 cơ bản hoàn thành các quy chuẩn kỹ thuật chính về ATTP cho các nhóm đối tượng và phù hợp với chuẩn mực quốc tế; đến hết năm 2018, kiện toàn cơ bản xong bộ máy quản lý nhà nước về ATTP các cấp theo hướng tập trung đầu mối, rõ trách nhiệm, tăng cường hiệu lực, hiệu quả. Nghị quyết cũng đặt ra nhiệm vụ đẩy mạnh quản lý ATTP sang kiểm soát theo quá trình sản xuất, dựa trên phân tích nguy cơ gây ô nhiễm thực phẩm; tăng cường hoạt động truy xuất nguồn gốc thực phẩm...
ĐB Phạm Trọng Nhân (Bình Dương): Phân công trách nhiệm quản lý ATTP không hợp lý “Theo một nguồn tin từ Văn phòng QH thì 53,4% người được hỏi trả lời việc phân công trách nhiệm quản lý nhà nước trong lĩnh vực ATTP là không hợp lý và chưa hợp lý lắm. Cũng câu hỏi trên, kết quả khảo sát của Viện Khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp đã thống kê có 73% cán bộ y tế, 60% cán bộ công thương và 57% cán bộ nông nghiệp cho rằng việc phân công trách nhiệm quản lý ATTP hiện nay là không hợp lý. Có thể thấy, giữa người dân và cán bộ quản lý chuyên ngành đã có một sự tiệm cận về ý chí khi đánh giá, phân công trách nhiệm quản lý nhà nước về ATTP hiện nay”. ĐB Hồ Thanh Bình (An Giang): Vấn đề xảy ra rồi mới tìm giải pháp “Việc quản lý ATTP hiện tại được tiếp cận theo hướng sử dụng luật và các văn bản luật hỗ trợ, dẫn tới quá nhiều văn bản ra đời, chồng chéo trách nhiệm của các cơ quan trong nhiều ban, ngành. Thông thường vấn đề xảy ra rồi mới tìm giải pháp và phương pháp quản lý. Xu hướng tiên tiến trên thế giới tiếp cận trên góc độ là thực hiện đánh giá, phân tích, quản lý các nguy cơ trong chuỗi ATTP. Cách tiếp cận này giúp nhìn nhận rõ hơn việc quản lý ATTP theo hướng toàn diện, xây dựng được năng lực và cải thiện được sự phối hợp giữa các bên và nhà sản xuất chế biến đến nhà quản lý nhằm tăng cường hiệu quả đề phòng vấn đề ATTP”. ĐB Trương Thị Yến Linh (Cà Mau): Doanh nghiệp chịu ảnh hưởng vì sự chồng chéo “Trong giai đoạn vừa qua đã có 158 văn bản quy phạm pháp luật về ATTP được ban hành nhưng các văn bản này thiếu tính ổn định dẫn đến khó triển khai thực hiện, có sự đan xen chồng chéo và thiếu cơ chế phối hợp cũng như không phân định rõ ngành nào chịu trách nhiệm quản lý chính. Các bất cập này còn khiến các doanh nghiệp sản xuất, chế biến, kinh doanh thực phẩm gặp khó khăn khi lần lượt chịu sự thanh tra, kiểm tra của nhiều cơ quan đơn vị. Vì vậy, tôi kiến nghị Quốc hội, Chính phủ, các bộ, ngành rà soát hệ thống pháp luật về ATTP để điều chỉnh hoàn thiện hành lang pháp lý thống nhất và đồng bộ hơn”. ĐB Nguyễn Như So (Bắc Ninh): Cơ quan quản nhiều nhưng vẫn có “lỗ hổng” “Trên cơ sở chính sách, pháp luật đã ban hành, cần xem xét lại phương thức tổ chức, quản lý về mặt nhà nước theo nguyên tắc một cơ sở sản xuất, kinh doanh chỉ chịu sự quản lý của một cơ quan nhà nước, khắc phục chồng chéo trong quản lý ATTP. ATTP có 3 ngành, ví dụ 1 chiếc bánh trung thu, vỏ bánh là tinh bột do ngành Công Thương quản lý, nhân bánh là thịt, trứng do ngành Nông nghiệp kiểm soát, còn ngành Y tế quản lý phụ gia, phẩm màu. Trái lại, thực tế có những mặt hàng chưa được cơ quan nào phụ trách, tạo ra “lỗ hổng” trong việc quản lý. Cần sửa đổi hoàn thiện hệ thống pháp luật ATTP theo hướng đơn giản hóa, tránh tình trạng quá nhiều luật sẽ trở nên rối. Luật thì nhiều nhưng hiểu luật lại ít, nội dung chồng chéo, mâu thuẫn, gây khó khăn cho cả chủ thể quản lý và đối tượng quản lý”. ĐB Phạm Khánh Phong Lan (TP Hồ Chí Minh): Còn nhiều khoảng trống “Theo Luật ATTP, chúng ta chia việc quản lý ATTP theo chiều dọc, tức là ai đã chịu trách nhiệm phải từ đầu đến cuối nhưng việc chia này lại theo nhóm ngành hàng. Trên thực tế, tôi nhận thấy việc quản lý của mỗi ngành vẫn thực sự chỉ là cắt ngang, giới hạn cho nhóm sản phẩm mình đã được phân công, do đó có nhiều khoảng trống. Đây chính là vấn đề chúng ta phải giải quyết về mặt chính sách. ATTP liên quan mật thiết đến rất nhiều chính sách khác. Nếu Bộ NN&PTNT có được chiến lược đúng đắn cho nền sản xuất nông nghiệp, Bộ Công Thương kiểm soát tốt được việc kinh doanh hóa chất thì tôi nghĩ ATTP sẽ được cải thiện nhiều và cải thiện từ gốc”. ĐB Trương Phi Hùng (Long An): Cần có cơ chế phối hợp chặt chẽ “Theo quy định về phân cấp, phân công quản lý, những sản phẩm thực phẩm hay cơ sở sản xuất, kinh doanh thực phẩm thuộc phân công quản lý của ngành nào thì ngành đó cấp giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện ATTP; và cơ quan cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện sẽ tiến hành kiểm tra hậu kiểm, sau khi cấp giấy chứng nhận đối với cơ sở đã được cấp giấy. Tại Điều 12 Thông tư số 19 năm 2012 của Bộ Y tế quy định về kiểm tra sau công bố, cơ quan tiếp nhận đăng ký và Chi cục An toàn vệ sinh thực phẩm nơi có cơ sở sản xuất, kinh doanh đóng trên địa bàn có thẩm quyền tổ chức kiểm tra việc thực hiện pháp luật về ATTP, chế độ kiểm nghiệm định kỳ đối với sản phẩm đã công bố. Với nội dung quy định như trên sẽ dẫn đến việc trùng lắp, chồng chéo trong công tác kiểm tra hậu kiểm giữa ngành Y tế với các cơ quan chuyên ngành như ngành Công Thương hoặc ngành Nông nghiệp. Tôi đề nghị cần có cơ chế phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan trong quá trình thanh tra, kiểm tra đối với cơ sở sản xuất ATTP, hoặc giao cho một đầu mối như thành lập Ban quản lý ATTP để thực hiện công tác quản lý ATTP nhằm tập trung nguồn lực, cũng như quy trách nhiệm trong công tác quản lý ATTP”. |