Theo bà Hoàng Thuý Khanh: Các giấy tờ, phiếu điều tra nguồn gốc đất, 3 trích lục sao sổ mục kê kèm theo 3 bản đồ địa chính các năm (1960, 1987 và 1994) đều thể hiện quyền sở hữu là cụ Hoàng Tích Tộ (bố đẻ bà Khanh).
Liên quan đến vụ việc, sau phán quyết của toà cấp sơ thẩm và phúc thẩm, bà Hoàng Thúy Khanh (SN 1949, ở số 5 ngách 39/32 đường Đông Ngạc, TDP 3, phường Đông Ngạc, quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội) cho biết đã làm đơn lên Giám đốc thẩm đối với 2 bản án sơ thẩm và phúc thẩm.
 |
Bà Hoàng Thuý Khanh. |
Người trong cuộc nói gì
Trao đổi với PV, bà Hoàng Thuý Khanh cho biết: Kính mong các cơ quan chức năng xem xét toàn diện vụ án, xác định rõ ngôi nhà thờ và quyền sử dụng đất trên thửa đất số 411, tờ bản đồ số 7 có diện tích là 3402m2 theo bản đồ năm 1987, còn theo bản đồ năm 1994, là số 18, bản đồ số 13, có diện tích là 3110m2, là của gia đình bà Khanh.
Bởi theo bà Khanh, từ xưa đến nay, thửa đất trên là nơi định cư ổn định của gia đình bố bà Khanh và trải qua nhiều đời.
Cụ thể, người đầu tiên là cụ Hoàng Quế Tường, tiếp đến là cu Hoàng Yến Thể, Hoàng Quân Hy, Hoàng Tích Tộ và đến bây giờ là anh chị em bà Khanh (là con của cụ Tộ).
Năm 1960, cụ Hoàng Tích Tộ được UBND xã Đông Ngạc (nay là phường Đông Ngạc) ghi tên trong sổ mục kê - sổ quản lý đất đai đầu tiên sau cải cách ruộng đất, cụ Hoàng Tích Tộ là chủ sở hữu thửa đất trên (từ năm 1960 đến nay).
 |
Theo bà Hoàng Thuý Khanh, căn nhà và mảnh đất trên thuộc sở hữu của các cá nhân, theo thừa kế cha để lại cho con. |
Khi vụ án xảy ra, đại diện UBND phường Đông Ngạc đã cung cấp cho gia đình bà Khanh các giấy tờ: Phiếu điều tra nguồn gốc đất, 3 trích lục sao sổ mục kê kèm theo 3 bản đồ địa chính các năm: 1960, 1987 và 1994.
“Theo quy định của của pháp luật, các giấy tờ trên đủ điều kiện để công nhận quyền sử dụng đất và cụ Hoàng Tích Tộ là chủ tài sản nằm trên thửa đất số 18, tờ bản đồ số 13 tại phường Đông Ngạc (quận Bắc Từ Liêm, Hà Nội) và con cụ Tộ là Hoàng Năng Toàn, Hoàng Thiệu Toản và Hoàng Thuý Khanh đang định cư hợp pháp trên nhà đất của bố là cụ Hoàng Tích Tộ”, bà Khanh nói.
Cũng theo bà Khanh, qua các cấp toà xét xử, buộc 3 anh em bà Khanh phải di chuyển toàn bộ công trình xây dựng trên đất và cây cối ra khỏi thửa đất là thiếu căn cứ pháp luật.
Bởi, tất cả các giấy tờ đều chứng minh thửa đất và tài sản trên đất đều thuộc sở hữu của cụ Hoàng Tích Tộ (bố bà Khanh).
"Mong các cơ quan chức năng xem xem toàn bộ hồ sơ vụ án, để đưa ra phán quyết cuối cùng một cách công minh, đúng với quy định của pháp luật”, bà Khanh cho hay.
Bà Hoàng Thuý Khanh cũng cho biết: Trước đây, sự việc đòi nhà đã có bản án sơ thẩm số 75/2007 ngày 8,9,11/2007 và bản án phúc thẩm số 113/2008 ngày 4/6/2008, đều bác bỏ sự việc.
Theo quy định pháp luật, các Nguyên đơn không có quyền khởi kiện sự việc trên nữa. Tuy nhiên, sự việc trên đến nay lại được thụ lý và đưa ra xét xử và có bản án là trái với quy định của Hiến pháp và pháp luật.
Cũng theo bà Hoàng Thuý Khanh, bà phải mất rất nhiều thời gian công sức để thu thập chứng cứ chứng minh quá trình xây dựng nhà tại thửa đất số 18, tờ bản đồ số 13 trên địa bàn phường Đông Ngạc, ban đầu chỉ thờ cụ Hoàng Tế Mỹ, chỉ mang ý nghĩa là con thờ cha, cháu thờ ông Nội chứ không có ý nghĩa tờ tổ 5 chi họ Hoàng Đông Ngạc.
Chính vì thế, tài sản trên không thuộc sở hữu của 5 chi họ Hoàng, mà từ xưa đến nay thửa đất và tài sản trên vẫn quản lý, sử dụng của cá nhân (theo luật thừa kế) là từ cụ Hoàng Quế Tường cho lại các thế hệ con cháu sau này cho đến đời cụ Hoàng Tích Tộ (là bố của bà Khanh).
“Và cụ thể là năm 1960, cụ Tộ được ghi trong sổ quản lý đất đai đầu tiên ở UBND xã Đông Ngạc. Kể từ năm 1960 đến nay trong sổ quản lý đất đai của UBND phường Đông Ngạc vẫn công nhận cụ Hoàng Tích Tộ là chủ sở hữu thửa đất số 18, tờ bản đồ số 13.
Gần 200 năm chưa bao giờ, thửa đất trên thuộc quản lý sử dụng của cộng đồng dòng họ Hoàng, cho đến hiện tại các con của cụ Tộ quản lý sử dụng là đúng với quy định của pháp luật, đúng với luật thừa kế, khi bố mẹ qua đời để lại tài sản cho con”, bà Khanh trình bày.
 |
Hiện tại bà Khanh cùng con gái tật nguyền đang sinh sống trên thửa đất trên. |
Hiện tại chồng bà Khanh đã mất, bà cùng với người con (bị tật nguyền) đang sinh sống ổn định trên thửa đất cha ông để lại, không có chỗ ở nào khác, mong cơ quan chức năng xem xét đến hoàn cảnh của bà Khanh để đưa ra phán quyết công minh, đúng quy định của pháp luật.
Nhiều tình tiết của vụ việc cần được làm rõ
Theo luật sư Chu Quang Quyến (Công ty Luật TNHH Hà Trọng Đại – Đoàn luật sư TP Hà Nội) cho rằng: Trong vụ án “Tranh chấp đòi tài sản chung là nhà thờ họ” còn nhiều tình tiết cần được làm rõ, mà cả hai cấp Sơ thẩm và Phúc thẩm đều bỏ qua, để tuyên bản án làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền lợi của những gia đình đang sinh sống trên thửa đất trên.
Theo luật sư Chu Quang Quyến, Tòa án sơ thẩm đã xác định sai quan hệ pháp luật tranh chấp: Tại Bản án sơ thẩm số 39/2021/DS-ST ngày 30/6/2021 của Tòa án nhân thành phố Hà Nội đã xác định tranh chấp giữa Nguyên đơn với Bị đơn là “Tranh chấp đòi tài sản chung là nhà thờ họ”.
Theo Thông báo thụ lý vụ án số 05/TB-TLVA ngày 06/4/2021, Tòa án sơ thẩm đã thụ lý vụ án trên cơ sở; Đơn khởi kiện ngày 20/01/2021của các ông Hoàng Việt Tấn, Hoàng Kim Đông, Hoàng Chí Cường, Hoàng Diễn Tằng, Hoàng Kim Đồng; Đơn giải trình bổ sung yêu cầu khởi kiện ngày 25/3/2021 của ông Hoàng Kim Đồng.
Căn cứ Điều 164 Bộ luật Dân sự năm 2015 (“BLDS”) quy định về biện pháp bảo vệ quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản và Điều 166 BLDS 2015 quy định về quyền đòi lại tài sản, chỉ có chủ sở hữu mới có quyền đòi lại tài sản và yêu cầu Tòa án buộc người có hành vi xâm phạm quyền trả lại tài sản.
 |
Giấy tờ chứng minh thửa đất cũng như tài sản gắm liền trên đất thuộc sở hữu của cụ Hoàng Tích Tộ (là bố của bà Khanh). |
Việc Nguyên đơn chưa được công nhận quyền sử dụng đất mà Tòa án sơ thẩm đã xác định tranh chấp đòi lại tài sản chung nhà thờ họ là không đúng quy định của pháp luật, bởi tranh chấp trong vụ án này là tranh chấp ai là người có quyền sử dụng đất”, luật sư Quyến cho biết.
Luật sư Chu Quang Quyến cũng cho hay, Tòa án sơ thẩm đã thụ lý vụ án khi Nguyên đơn “chưa có đủ điều kiện khởi kiện”: Tại các Đơn khởi kiện, Đơn giải trình bổ sung yêu cầu khởi kiện, Nguyên đơn không gửi kèm Biên bản hòa giải tranh chấp đất đai tại Ủy ban nhân dân phường Đông Ngạc.
Tức là Nguyên đơn chưa thực hiện việc hòa giải tranh chấp đất đai tại UBND phường Đông Ngạc với phía Bị đơn trước khi khởi kiện.
Như vậy, Nguyên đơn chưa đủ điều kiện khởi kiện quy định tại điểm b Khoản 1 Điều 192 BLTTDS.Việc Tòa án sơ thẩm thụ lý vụ án khi Nguyên đơn chưa đủ điều kiện khởi kiện là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, gây ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của Bị đơn.
Luật sự Quyến còn cho biết, Tòa án sơ thẩm và Toà án cấp phúc thẩm đã sử dụng giấy tờ, tài liệu của cá nhân ở nước ngoài gửi về không có giá trị pháp lý tại Việt Nam, tiến hành thủ tục thẩm định giá tài sản trái quy định, tại Biên bản làm việc ngày 14/5/2021, các bên đương sự trong vụ kiện đều không đưa ra được giá trị các công trình, cây cối cũng như giá trị QSD đất và đề nghị Tòa án tiến hành thủ tục định giá theo quy định pháp luật.
Tòa án đã ký hợp đồng với Công ty cổ phần Định giá và Dịch vụ tài chính Việt Nam để tiến hành định giá tài sản nhà đất, công trình, cây cối trên đất.
Việc lựa chọn Tổ chức thẩm định giá tài sản là quyền tự do thỏa thuận của các đương sự, chứ không do Tòa án tự động chỉ định và ký hợp đồng thẩm định giá với Tổ chức thẩm định giá.
Do đó, trong vụ án này, việc tòa án sơ thẩm là chủ thể ký Hợp đồng thẩm định giá với Công ty CTCP Định giá và Dịch vụ tài chính Việt Nam ngày 06/5/2021 là vi phạm quy định tại Khoản 2 Điều 104 BLTTDS.
Đây là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng về định giá tài sản, hậu quả pháp lý là Hợp đồng thẩm định giá và Chứng thư thẩm định giá là vô hiệu, không có giá trị pháp lý.
Tuy nhiên, Toà án cấp sơ thẩm và cấp phúc thẩm đã sử dụng tài liệu chứng cứ này để giải quyết vụ án, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn.
Hơn nữa, theo luật sư Chu Quang Quyến, tòa án cấp sơ thẩm và Toà án cấp phúc thẩm đã đánh giá chứng cứ không khách quan, không chính xác trong việc xác định nguồn gốc đất.
Tòa án sơ thẩm đã căn cứ vào Bản án số 75/2007/DS-ST ngày 08,09/11/2007 của TAND thành phố Hà Nội và Bản án số 113/2008/DS-PT ngày 04/04/2008 của TAND tối cao để làm căn cứ xác định nguồn gốc đất.
Cả hai bản án nêu trên đều tuyên: “cổng cổ, nhà cổ, sân gạch, bể nước tọa lạc trên diện tích đất mà cụ Tộ đứng tên kê khai trong các sổ mục kê vào các năm 1960, 1987, 1994 các nguyên đơn đều không chứng minh được do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền giao cho, hay cụ Tộ được thừa kế, hoặc được tặng cho… HĐXX thấy có đủ căn cứ xác định các tài sản cổ hiện tọa lạc trên diện tích đất 3.030m2 đo thực tế tại xóm 3 xã Đông ngạc, Từ liêm, Hà Nội không phải là di sản của cụ Hoàng Tích Tộ…”
Có thể thấy, hai bản án nêu trên đều xác định tài sản trên đất là cổng cổ, nhà cổ, sân gạch, bể nước và diện tích nhà Thờ họ Hoàng gồm nhà thờ được xây gạch khung gỗ lim, lợp ngói rộng trên 100 m2 là của Dòng họ Hoàng chứ không khẳng định toàn bộ diện tích 3110m2 là của Dòng họ Hoàng.
"Do đó, trong vụ án, việc xác định nguồn gốc đất phải căn cứ vào Phiếu điều tra nguồn gốc đất, Trích lục bản đồ năm 1960, Trích lục bản đồ năm 1987 và Trích lục bản đồ năm 1994.
Nội dung đều thể hiện chủ sử dụng đất là ông Hoàng Tích Tộ (bố của các bị đơn) và loại đất sử dụng là đất thổ cư chứ không phải đất thờ cúng", luật sư Quyến nói.
Cũng theo luật sư Chu Quang Quyến, theo Điều 100 Luật đất đai năm 2013 quy định về Cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cho hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư đang sử dụng đất có giấy tờ về quyền sử dụng đất như sau: Các loại giấy tờ khác được xác lập trước ngày 15 tháng 10 năm 1993 theo quy định của Chính phủ.
Theo Điều 18 Nghị định 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 quy định Giấy tờ khác về quyền sử dụng đất quy định tại Điểm g Khoản 1 Điều 100 của Luật Đất đai như sau:
“Các giấy tờ khác lập trước ngày 15 tháng 10 năm 1993 theo quy định tại Điểm g Khoản 1 Điều 100 của Luật Đất đai có tên người sử dụng đất, bao gồm: Sổ mục kê đất, sổ kiến điền lập trước ngày 18 tháng 12 năm 1980.”
“Theo quy định trên, Phiếu điều tra nguồn gốc đất, Trích lục bản đồ năm 1960, Trích lục bản đồ năm 1987 và Trích lục bản đồ năm 1994 là các giấy tờ quy định tại khoản 1 Điều 100 Luật Đất đai năm 2013 để làm căn cứ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Bên cạnh đó, tất cả các giấy tờ nêu trên còn thể hiện ông Hoàng Tích Tộ đã sử dụng đất ổn định, lâu dài và liên tục từ năm 1954 cho đến năm 1994 là 39 năm và hiện nay các bị đơn đang quản lý, sử dụng ổn định”, luật sư Hà Trọng Đại nhấn mạnh.
Nó còn thể hiện rất rõ trong các Điều 236, Điều 180, Điều 182, của BLDS 2015, về việc xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu do chiếm hữu, Chiếm hữu ngay tình và chiếm hữu liên tục...
“Căn cứ vào các giấy tờ nêu trên và đối chiếu với quá trình quản lý sử dụng của các gia đình bị đơn, việc công nhận quyền sử dụng đất cho các bị đơn là có căn cứ pháp luật.
Tuy nhiên, Tòa án sơ thẩm và cấp phúc thẩm đã không căn cứ vào các loại giấy tờ được Luật đất đai quy định để xác định nguồn gốc đất và việc xác lập sở hữu đối với bất động sản đề công nhận quyền sử dụng đất cho các bị đơn, như vậy là áp dụng không đúng quy định của pháp luật, không khách quan, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn”, luật sư Quang Quyến cho hay.
“Quá trình xây dựng nhà thờ, cũng như những bản dịch thuật từ chữ Nho ở hoành phi, câu đối phía bên trong nhà thờ để chứng minh nhà thờ thuộc quyền sở hữu của cá nhân chứ không thuộc 5 chi họ Hoàng, báo Pháp luật Việt Nam sẽ tiếp tục đăng tải trong bài tiếp theo”. |
Báo Pháp luật Việt Nam sẽ tiếp tục thông tin về vụ việc trên.