Người Dao ở tỉnh miền núi Hà Giang là tộc người duy nhất không sử dụng vàng mã bán ngoài chợ để làm lễ cúng hoặc phục vụ tín ngưỡng.
Kỳ công biến vàu non thành… giấy bản
Theo dữ liệu thống kê của tỉnh Hà Giang, dân tộc Dao nói chung có số dân đông thứ tư trong số 22 dân tộc sinh sống của tỉnh. Trong đó hầu hết các nhánh Dao (Dao áo dài, Dao quần trắng, Dao Đỏ…) đều sử dụng giấy Bản thay vàng mã trong các nghi lễ truyền thống.
Thực tế, giấy Bản trước đây còn gọi là giấy Rơm, bởi nguyên liệu chính để sản xuất loại giấy này là từ rơm, rạ. Tuy nhiên một ngôi làng đã sử dụng cây vàu non làm nguyên liệu chính.
Ngôi làng duy nhất sản xuất loại giấy này cung ứng ra thị trường phục vụ người Dao trong và ngoài tỉnh là đồng bào Dao thôn Thanh Sơn, thị trấn Việt Quang, huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang.
Chỉ nằm cách trung tâm thị trấn 3km, nhưng cuộc sống của người dân nơi này gần như tách biệt với phố thị, đồng bào quanh năm chỉ quần quật với công việc đồng áng và duy trì nghề truyền thống của mình.
|
Nghề truyền thống giấy Bản đã được người Dao ở thôn Thanh Sơn lưu giữ hàng trăm năm. |
Ông Phàn Chòi Nhàn (62 tuổi) bảo, ông cũng không rõ nghề giấy bản có từ khi nào, không có tài liệu nào để đọc chỉ biết khi sinh ra ông đã thấy bố mẹ mình làm rồi, bản thân ông cũng được bố mẹ mình truyền lại nghề. Cứ như vậy thế hệ này nối tiếp thế hệ khác, ông Nhàn dạy các con làm giấy bản, rồi các con ông truyền lại cho các cháu.
Theo ông Nhàn, trước đây ở một số địa phương khác sử dụng rơm, rạ làm nguyên liệu sản xuất giấy bản, nhưng vì công đoạn quá rườm rà nên hiện tại họ đều mua giấy bản ở Thanh Sơn dùng. Giấy bản ở làng này có nhiều đặc tính ưu việt như: Giấy trắng hơn, thấm nước tốt, đốt thành tro dễ bay…
Theo các nghệ nhân làm nghề này, giấy bản là một sản phẩm kỳ công phải là người nắm rõ bí quyết mới làm ra được sản phẩm được người dùng ưa chuộng. Ngoài các nguyên liệu và tay nghề giỏi, để có được sản phẩm tốt còn phụ thuộc vào sự ủng hộ của thời tiết.
Bà Phàn Thị Diên (46 tuổi) cho biết, năm nào cũng thế vào thời điểm sau khi ăn Tết Nguyên Đán, đến tháng 2, tháng 3 âm lịch, người dân lên rừng tìm nguyên liệu là vàu non mới mọc 2-3 lá. Sau đó chọn cây không bị sâu ăn ngọn chặt mang về ngâm với nước vôi khoảng 2 tháng thì rửa cho vào một bể sạch ngâm và thay nước liên tục.
Thời gian ngâm ở bể mới khoảng 2-3 tháng mới tháo cạn nước mang ra sản xuất, tuy vậy những công đoạn sau đó cũng rất kỳ công.
"Sau khi đủ thời gian ngâm, chúng tôi mới lấy vàu từ các bể chứa cho vào bể nhỏ làm sẵn, cứ thế dùng chân dẫm cho nát thành bột. Kế đó, chuyển số giấy vừa Làm nát cho vào một bể khác để sản xuất, lúc này bột phải pha với nhựa của cây Bo, đó là loại dây leo mọc trog rừng sâu”.Bà Diên chia sẻ.
Trong công đoạn này, cây Bo mang về phải chặt thành từng đoạn nhỏ rồi cho vào thùng ngâm nước khoảng 1 ngày 1 đêm để nhựa cây thoát ra ngoài, rồi dùng nhựa này pha với bột vàu khuấy đều.
Nguyên liệu đã xong rồi thì đến khâu tráng giấy theo khuôn với chiều dài 90 cm, chiều rộng 30 cm, sau đó ép nước, bóc và phơi giấy cho khô rồi xếp thành từng bục. Mỗi bục giấy bằng 80 thếp, mỗi thếp giấy bằng 5 tờ. Trung bình mỗi người làm 1 ngày có thể tạo ra được 4-5 bục giấy như vậy.
Thị trường ngày một lớn
Ông Phàn Chòi Phú (53 tuổi) cho hay, ở thời đại hàng giả hàng thật lẫn lộn nhu cầu sử dụng giấy chất lượng ngày càng được chú trọng. Ví như trước đây giấy bản chỉ bán được tại các huyện lân cận thì bây giờ giấy này còn bán được cho người Dao ở các huyện xa hơn như Mèo Vạc, Quản Bạ ( tỉnh Hà Giang), Chiêm Hóa, Hàm Yên, Lâm Bình ( tỉnh Tuyên Quang).
Theo ông Phú, giấy bản rất xốp và dễ cắt, tạo hình hài những con vật trong trang trí vàng mã, trang trí bàn thờ trong các dịp lễ, tết nên được người dân nhiều nơi ưa chuộng. Ngoài ra, người Dao còn dùng giấy này thay cho giấy vệ sinh trong các bữa ăn vì sạch sẽ, dễ đốt và không gây ô nhiễm môi trường, dễ tan khi tiếp xúc với nước.
Người dân ở thôn Thanh Sơn cho biết, thị trường giấy bản ngày nay được mở rộng nhiều hơn vì không chỉ gói gọn mỗi đồng bào người Dao sử dụng mà một số dân tộc khác cũng mua dùng. Chẳng hạn như người Tày Hà Giang nổi tiếng với món gỏi cá, nhưng để làm gỏi phải cần nguyên liệu hút nước từ con cá đã qua sơ chế và giấy bản có đặc tính ưu việt này.
|
Sản phẩm sau khi được các nghệ nhân tạo ra. |
Để bảo tồn và phát triển làng nghề sản xuất giấy bản truyền thống của dân tộc Dao, trên cơ sở đề xuất của Hội đồng khoa học công nghệ (KHCN) huyện Bắc Quang, Sở KH&CN Hà Giang đã đưa dự án bảo tồn và phát triển nghề sản xuất giấy bản truyền thống của dân tộc Dao ở thôn Thanh Sơn vào chương trình đề tài, dự án KHCN cấp huyện năm 2012.
Mục tiêu của dự án là hỗ trợ nhân dân ứng dụng cơ khí hóa vào sản xuất, phát triển bền vững làng nghề truyền thống; hỗ trợ các hộ sản xuất ứng dụng đưa máy công cụ cải tiến vào sản xuất nhằm tăng năng suất, giải phóng một phần sức lao động của con người; tập huấn, chuyển giao ứng dụng KHCN vào hoạt động sản xuất cho các hộ sản xuất; định hướng phát triển bền vững làng nghề truyền thống, gắn với bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và môi trường.
Được sự quan tâm giúp đỡ và hỗ trợ kinh phí của chương trình KHCN huyện, các hộ tham gia sản xuất giấy bản ở thôn Thanh Sơn đã chuyển hóa một phần từ sản xuất thủ công sang ứng dụng cơ khí hóa cải tiến công cụ trong hoạt động sản xuất. Tuy nhiên, quy trình chế biến nguyên liệu, phương pháp tráng và bể tráng giấy thì vẫn được bà con dân tộc Dao thực hiện theo phương pháp truyền thống.
Ông Lò Dùn Chìu, Trưởng thôn Thanh Sơn cho biết, nghề làm giấy bản của dân tộc Dao thôn Thanh Sơn đã đem lại nguồn thu nhập chính cho người dân. Hiện có gần 100/120 hộ duy trì thường xuyên nghề sản xuất giấy bản.
Trung bình mỗi hộ sản xuất trên 80 bục giấy/năm; mỗi bục hiện bà con bán tại thôn 200.000 đồng. Mỗi năm, riêng thu nhập của bà con dân tộc Dao ở thôn Thanh Sơn từ nghề sản xuất giấy bản đã đạt gần 20 triệu đồng/hộ. Nhờ đó cuộc sống của người Dao thôn Thanh Son giờ đây đã ngày một khởi sắc.