Một đối tượng không chấp hành hiệu lệnh của cơ quan chức năng trên tuyến đường được bảo vệ phục vụ đoàn lãnh đạo cấp cao nước ngoài vừa bị khởi tố về tội “Gây rối trật tự công cộng”. Vậy, một hành vi "gây rối" ở mức độ nào thì bị xử lý hình sự về tội “Gây rối trật tự công cộng”?
 |
Đỗ Xuân Long bị khởi tố điều tra về hành vi gây rối trật tự công cộng vì hành vi uống rượu say, không chấp hành hiệu lệnh của cơ quan chức năng trên tuyến đường bảo vệ đoàn lãnh đạo cấp cao Trung Quốc |
Gây rối trên tuyến đường bảo vệ đoàn lãnh đạo cấp cao
Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Hà Nội đã ra quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can và lệnh bắt tạm giam đối với Đỗ Xuân Long (sinh năm 1988, trú tại khu 8, thôn Thường Lệ, xã Đại Thịnh, huyện Mê Linh, Hà Nội) để điều tra về hành vi "Gây rối trật tự công cộng" theo quy định tại Điều 318 Bộ luật Hình sự.
Theo tài liệu điều tra, ngày 15/4/2025, trong thời điểm đoàn Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa có chuyến thăm cấp Nhà nước đến Việt Nam, Công an thành phố Hà Nội đã triển khai phương án bảo vệ nghiêm ngặt trên các tuyến đường đoàn di chuyển, trong đó có tuyến Võ Nguyên Giáp.
Khoảng 13h cùng ngày, sau khi uống rượu tại xã Vân Nội (huyện Đông Anh), Long điều khiển xe máy chở theo bạn, cả hai không đội mũ bảo hiểm, di chuyển ngược chiều trên đường Võ Nguyên Giáp theo hướng Nhật Tân - Nội Bài với tốc độ cao, dù đã thấy biển cấm.
Khi đến đoạn quán trà đá Vọng thuộc thôn Thái Phù, xã Mai Đình (huyện Sóc Sơn), lực lượng làm nhiệm vụ bảo vệ đoàn công tác đã ra hiệu lệnh dừng xe nhưng Long không chấp hành, tiếp tục phóng xe. Tới vòng xuyến Vip A – nơi bắt đầu cấm đường hoàn toàn – xe của Long bị chặn lại. Cảnh sát giao thông yêu cầu cả hai xuống xe vào lề đường, nhưng Long không tuân thủ, còn giằng co, xô đẩy cán bộ làm nhiệm vụ, gây mất an ninh trật tự tại khu vực bảo vệ.
Lực lượng chức năng đã khống chế, đưa Long về làm việc tại Đồn Công an sân bay quốc tế Nội Bài.
Sự việc xảy ra đúng thời điểm thực hiện phương án bảo vệ đoàn khách quốc tế, gây nguy cơ mất an toàn cho đoàn, làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến an ninh trật tự.
Gây rối trật tự công cộng là gì?
Theo đó, “Gây rối trật tự công cộng” là hành vi cố ý làm mất tình trạng ổn định, có tổ chức, có kỷ luật ở nơi công cộng, gây ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự, an toàn xã hội, trực tiếp xâm phạm trật tự công cộng và có thể gây thiệt hại đến lợi ích của nhà nước, của xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân được pháp luật bảo vệ.
Điều 318, Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung 2017 quy định về tội “Gây rối trật tự công cộng” theo đó người nào gây rối trật tự công cộng gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm thì mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Hành vi gây rối trật tự xâm phạm đến tình trạng ổn định, có tổ chức, có kỷ luật ở nơi đông người; vi phạm quy tắc, nếp sống văn minh, cản trở hoạt động lành mạnh và bình thường của những người khác ở nơi công cộng. Hành vi này cũng làm ảnh hưởng đối với việc thực hiện những đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước trong quá trình phát triển đất nước.
Khi nào bị khởi tố về tội “Gây rối trật tự công cộng”?
Khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn đầu tiên của hoạt động tố tụng hình sự, theo đó, các cơ quan có thẩm quyền xác định sự việc xảy ra có hay không có dấu hiệu tội phạm để ra quyết định khởi tố vụ án hình sự hoặc quyết định không khởi tố vụ án hình sự. Giai đoạn khởi tố có vai trò tạo cơ sở cho các hoạt động ở những giai đoạn tố tụng tiếp theo của quá trình giải quyết vụ án hình sự.
Theo khoản 1, Điều 432, Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015: “Khi xác định có dấu hiệu tội phạm do cá nhân, pháp nhân thực hiện thì cơ quan có thẩm quyền ra quyết định khởi tố vụ án hình sự theo quy định”.
Căn cứ theo Điều 143, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, cơ quan có thẩm quyền chỉ được khởi tố vụ án hình sự khi đã xác định có dấu hiệu tội phạm. Việc xác định dấu hiệu của tội phạm dựa vào những căn cứ sau:
- Tố giác của cá nhân: Đây là việc cá nhân phát hiện và tố cáo hành vi có dấu hiệu tội phạm với cơ quan có thẩm quyền;
- Tin báo của cơ quan, tổ chức, cá nhân: Đây là những thông tin về vụ việc có dấu hiệu tội phạm do các cơ quan, tổ chức, cá nhân phát hiện hoặc cơ quan, tổ chức nhận được tố giác tin báo của cá nhân và chuyển cho cơ quan điều tra có thẩm quyền;
- Tin báo trên phương tiện thông tin đại chúng: Phương tiện thông tin đại chúng gồm có báo in, báo điện tử, đài phát thanh, đài truyền hình và trang/Cổng thông tin điện tử.
- Kiến nghị khởi tố của cơ quan nhà nước: Đây là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền kiến nghị bằng văn bản gửi kèm theo chứng cứ, tài liệu liên quan cho cơ quan điều tra, viện kiểm sát có thẩm quyền xem xét, xử lý vụ việc có dấu hiệu tội phạm.
- Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng trực tiếp phát hiện dấu hiệu tội phạm: Trong quá trình giải quyết vụ án, cơ quan điều tra, viện kiểm sát, tòa án có nhiều điều kiện phát hiện hành vi vi phạm pháp luật. Một số cơ quan tuy chức năng chính là quản lý nhà nước nhưng cũng có điều kiện phát hiện sự việc phạm tội như bộ đội biên phòng, hải quan, kiểm lâm, kiểm ngư…
- Người phạm tội tự thú: Đây là việc người phạm tội tự nguyện khai báo với cơ quan, tổ chức về hành vi phạm tội của mình trước khi tội phạm hoặc người phạm tội bị phát hiện.
Như vậy, để khởi tố về tội gây rối trật tự công cộng, trước hết cơ quan có thẩm quyền phải xác định có sự việc phạm tội xảy ra, sau đó xem xét xem liệu sự việc đó có dấu hiệu của tội phạm hay không. Và để xác định dấu hiệu tội phạm, cơ quan có thẩm quyền sẽ dựa vào các căn cứ quy định tại Điều 143, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.
Điều 318 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) chế tài với tội danh này cụ thể như sau: 1. Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm • Người nào gây rối trật tự công cộng gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội; • Người đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này; • Người đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm 2. Phạt tù từ 02 năm đến 07 năm nếu tội phạm thuộc một trong các trường hợp sau • Có tổ chức; • Dùng vũ khí, hung khí hoặc có hành vi phá phách; • Gây cản trở giao thông nghiêm trọng hoặc gây đình trệ hoạt động công cộng; • Xúi giục người khác gây rối; • Hành hung người can thiệp bảo vệ trật tự công cộng; • Tái phạm nguy hiểm. |