Nhiều người có tài sản động sản và bất động sản nhưng không thể đứng ra quản lý, trao đổi mua bán thì nên ủy quyền người khác thay mặt thực hiện, không nên “ủy quyền” sở hữu trên sổ đỏ, sổ hồng, sẽ rất dễ dẫn tới những rủi ro pháp lý.
 |
Chỉ có thể ủy quyền mua bán, quản lý mà không nên "ủy quyền" sở hữu tài sản động sản và bất động sản. |
Pháp luật không công nhận "ủy quyền" đứng tên sổ đỏ, sổ hồng
Để làm rõ vấn đề này cần biết, khoản 16, Điều 3 Luật Đất đai nêu rõ, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất hay thường gọi là sổ đỏ, sổ hồng.
Đây là chứng thư để Nhà nước xác nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà của cá nhân, tổ chức với quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở đó.
Ngoài ra, về việc thể hiện thông tin về người sử dụng đất, chủ sở hữu nhà ở trên sổ đỏ, sổ hồng, Điều 5 Thông tư 23/2014/TT-BNTMT quy định như sau: Người sử dụng đất, chủ sở hữu tài sản được cấp Giấy chứng nhận được ghi trên sổ đỏ, sổ hồng với các thông tin: Họ tên, năm sinh, tên, số giấy tờ nhân thân, địa chỉ thường trú;
Chủ sở hữu đất và chủ sử dụng đất không cùng là một người thì sẽ cấp riêng sổ đỏ, sổ hồng cho từng người và sổ cấp cho người nào thì chỉ ghi thông tin của người đó;
Trường hợp có nhiều người cùng sử dụng đất, cùng sở hữu tài sản và có thoả thuận về việc cấp sổ đỏ cho người đại diện thì văn bản thoả thuận này phải được công chứng, chứng thực và Giấy chứng nhận này sẽ cấp cho người đại diện đó.
Tuy nhiên, trên sổ đỏ, ngoài dòng ghi thông tin về người đại diện thì vẫn phải ghi đầy đủ các thông tin của các người đồng sử dụng, đồng sở hữu khác.
Trong khi đó, uỷ quyền được quy định tại Điều 562, Bộ luật Dân sự năm 2015 như sau:“Hợp đồng uỷ quyền là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên được uỷ quyền có nghĩa vụ thực hiện công việc nhân danh bên uỷ quyền, bên uỷ quyền chỉ phải trả thù lao nếu có thoả thuận hoặc pháp luật có quy định”.
Theo quy định này, việc uỷ quyền chỉ xảy ra khi các bên có thoả thuận để một bên thực hiện công việc thay mặt cho bên khác.
Có thể thấy, uỷ quyền là hướng đến việc "thực hiện thay một công việc” như quản lý, mua bán, trao đổi hoặc làm các thủ tục pháp lý khác, trong khi "ủy quyền" đứng tên trên sổ đỏ lại thể hiện sự công nhận của Nhà nước về quyền sở hữu, sử dụng nhà, đất của cá nhân.
Do đó, việc "ủy quyền" đứng tên thay trên sổ đỏ, sổ hồng không được pháp luật bảo vệ vì có thể dẫn tới những hệ lụy về tranh chấp về quyền lợi, pháp lý khác như: Người được uỷ quyền không sang tên sổ đỏ lại cho người uỷ quyền (chủ sở hữu, sử dụng thực sự của quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở), không trả lại tài sản cho người uỷ quyền... sẽ dẫn đến tranh chấp; Khi có tranh chấp về quyền sở hữu tài sản, khó có căn cứ để xác định chủ sở hữu thực sự của quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở; Người được uỷ quyền đứng tên trên sổ đỏ có thể chuyển nhượng, tặng cho... cho người khác nếu đủ điều kiện.
Người được ủy quyền có tự ý sang tên cho họ được không?
Trường hợp khác, người được ủy quyền có tự ý chuyển nhượng đất cho họ được không thì phải căn cứ vào phạm vi ủy quyền, quy định tại Hợp đồng ủy quyền bạn ký với bên nhận ủy quyền.
Tuy nhiên căn cứ tại khoảng 3, Điều 141, Bộ luật dân sự năm 2015, thì người được ủy quyền không được đại diện người ủy quyền để xác lập, thực hiện giao dịch dân sự với chính mình hoặc với bên thứ ba mà mình cũng là người đại diện của người đó, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác, tức là người được ủy quyền không thể tự mình chuyển nhượng tài sản động sản và bất động sản của người ủy quyền cho chính họ.
Như vậy, xuất phát từ nguyên tắc tự do thỏa thuận thì thời hạn hợp đồng ủy quyền chuyển nhượng nhà đất do các bên thỏa thuận, nếu không có thỏa thuận thì hợp đồng ủy quyền có hiệu lực 01 năm, kể từ ngày xác lập việc ủy quyền, quy định tại Điều 563, Bộ luật Dân sự 2015.