![]() |
| Trụ sở TAND tỉnh Đồng Tháp. |
Xác định nguyên đơn là “con nuôi” không đúng căn cứ pháp luật
Theo nội dung vụ án, ông Võ Minh Nhân (SN 1985 trú tại TP Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp) khởi kiện bà Võ Thị Ngọc Hưng và những người có quyền nghĩa vụ liên quan đòi lại số tiền 3,8 tỷ đồng là di sản của bà Võ Thị Nguyệt (đã mất năm 2022) để lại. Ông Nhân cho rằng, mình là con nuôi bà Nguyệt nên thuộc hàng thừa kế thứ nhất, được quyền thụ hưởng toàn bộ di sản của bà Nguyệt.
Bản án sơ thẩm số 39/2024/DS-ST ngày 14/8/2024 của TAND TP Hồng Ngự chấp nhận yêu cầu đòi tài sản của ông Nhân, tuyên buộc bà Hưng và những người liên quan trả lại cho ông Nhân số tiền hơn 3,3 tỷ đồng (sau khi đã cấn trừ số tiền ông Nhân nhận trước đó). Không đồng ý với phán quyết trên, phía bị đơn đã kháng cáo toàn bộ bản án.
Tại phiên xử phúc thẩm ngày 21/03/2025, TAND tỉnh Đồng Tháp nhận định: vì bà Nguyệt không lập gia đình nên bà Thuẩn (mẹ đẻ của Nhân) mới giao Nhân khi đó 3 tháng tuổi cho bà Nguyệt nuôi. Ông Tổng (bố đẻ Nhân) thì cho rằng, vợ chồng ông giao Nhân cho cha mẹ ông (tức ông bà nội Nhân) nuôi giúp. Khi Nhân đến tuổi đi học, bà Nguyệt đi làm giấy khai sinh cho cháu thì ông Tổng không có ở nhà, sau này mới biết bà Nguyệt đi làm giấy khai sinh cho Nhân có khai trong giấy khai sinh phần thông tin của người mẹ ghi tên là Võ Thị Nguyệt (về thông tin người cha thì ghi con ngoài giá thú)… Từ lập luận trên, cho rằng ông Nhân là con nuôi của bà Nguyệt, TAND tỉnh Đồng Tháp tuyên y án với bản án sơ thẩm.
Hồ sơ vụ án thể hiện, bà Võ Thị Nguyệt sinh năm 1959 là con của cụ Võ Văn Cưng (mất 1995) và cụ Lương Thị Thiệp (mất 2016). Vợ chồng cụ Cưng - Thiệp có các con gồm: bà Hưng, bà Nguyệt, bà Quý, ông Tổng, ông Pho, bà Dung, bà Chính và ông Bích.
Võ Minh Nhân là con ruột của ông Tổng và bà Thuẩn. Năm 1985, khi Nhân được 03 tháng tuổi thì ông Tổng - bà Thuẩn mâu thuẫn, bà Thuẩn bỏ đi, ông Tổng gửi con trai (Nhân) cho cha mẹ ruột của mình (vợ chồng cụ Cưng) nuôi giúp để đi nơi khác làm ăn. Nhân được ông bà nội và một số anh em trong gia đình nuôi dạy, chứ không riêng bà Nguyệt. Bà Nguyệt khi đó còn trẻ, ở chung nhà, cùng hộ khẩu với vợ chồng cụ Cưng - cụ Thiệp và Nhân.
![]() |
| Trong hồ sơ vụ án tồn tại 2 Giấy khai sinh khác nhau đều của ông Võ Hồng Nhân. |
Khi Nhân đi học thì bà Nguyệt đại diện gia đình đi đăng ký khai sinh, mục đích là để Nhân đi học, chứ không phải là để nhận làm con nuôi. Lần thứ nhất ngày 09/9/1989, lần thứ hai ngày 03/10/1992. Tại giấy khai sinh, phần thông tin người mẹ ghi: Võ Thị Nguyệt, kèm địa chỉ. Phần họ tên của người đứng khai sinh ghi: Cô: Võ Thị Nguyệt, sinh năm 1959 kèm địa chỉ của bà Nguyệt, khớp với thông tin ở phần thông tin người mẹ.
Do được ông bà nội nuôi nên Nhân có tên trong hộ khẩu nhà cụ Thiệp (sổ cấp năm 1998), phần nhân khẩu Võ Minh Nhân ghi quan hệ với chủ hộ: Cháu. Sổ này cũng có tên bà Nguyệt, quan hệ với chủ hộ: Con. Đến năm 2008, bà Nguyệt tách sổ hộ khẩu riêng, chủ hộ là Võ Thị Nguyệt, sổ hộ khẩu của bà Nguyệt chỉ đứng tên một mình, không có tên ông Nhân. Năm 2017 bà Nguyệt làm lại sổ hộ khẩu và thay đổi địa chỉ nhà cũng chỉ có một mình tên bà Nguyệt chủ hộ, không có tên ông Nhân.
Khi còn sống, bà Nguyệt có khối tài sản gồm: 01 sổ tiết kiệm trị giá 3,8 tỷ đồng gửi tại Ngân hàng Kiên Long, 01 căn nhà và 02 kiot bán hàng. Tháng 02/2022 bà Nguyệt mất không để lại di chúc. Sinh thời bà Nguyệt không xây dựng gia đình, không có con đẻ và cũng không có giấy tờ nào chứng minh bà Nguyệt có con nuôi.
Ngày 14/4/2022, anh chị em ruột của bà Nguyệt (thuộc hàng thừa kế thứ hai) đã lập “Văn bản thỏa thuận phân chia di sản thừa kế” do bà Nguyệt để lại. Sau khi xác minh hồ sơ, chứng cứ anh em ruột của bà Nguyệt kê khai cung cấp, Ngân hàng Kiên Long đã chi trả toàn bộ di sản thừa kế mà bà Nguyệt để lại. Sau đó, ông Nhân khởi kiện tranh chấp tài sản vì cho rằng ông là con nuôi bà Nguyệt, phải được hưởng thừa kế.
Bản án chưa thấu tình đạt lý?
Với tư cách là cha đẻ của nguyên đơn Võ Minh Nhân và cũng là em ruột của người để lại di sản thừa kế, ông Võ Văn Tổng cho rằng việc bà Nguyệt làm thủ tục đăng ký khai sinh cho Nhân ngày 03/10/1992 là để cho Nhân có giấy tờ đi học, chứ không phải nhận làm con nuôi theo quy định pháp luật vì khi đó ông Tổng chỉ gửi nhờ cha mẹ nuôi Nhân, chứ chưa bao giờ cho Nhân làm con nuôi.
“Hồi đó trong gia đình có nhiều người, thấy tôi khó khăn nên mỗi người chung tay một chút để nuôi Nhân. Bà Nguyệt chưa lập gia đình, đại diện gia đình đi khai sinh cho cháu, chứ không hề có ý chí nhận Nhân làm con nuôi, nên trong Giấy khai sinh ghi bà Nguyệt là Cô. Tôi không từ bỏ quyền nuôi dưỡng Nhân như tòa án nhận định vì tôi vẫn thường xuyên về thăm và gửi tiền để bố mẹ và anh em tôi nuôi Nhân. Trong phiên hòa giải, Nhân vẫn thừa nhận là con ruột của tôi và gọi bà Nguyệt là cô Ba. Bản thân tôi cũng không có bất cứ văn bản giấy tờ nào đồng ý để cho Nhân làm con nuôi của bà Nguyệt nên việc Tòa án cho rằng, trên thực tế bà Nguyệt nhận Nhân làm con nuôi là hoàn toàn không có căn cứ”- ông Tổng phản bác.
Tại tòa phúc thẩm, ông Tổng yêu cầu Tòa làm rõ thông tin có hay không việc tồn tại Giấy khai sinh đề ngày 09/9/1989 vì trong hồ sơ lưu của UBND phường An Thạnh chỉ có bản sổ mục khai sinh viết tay (không có chữ ký của bà Nguyệt cũng như tên và chữ ký người cấp), nhưng tòa phúc thẩm bỏ qua không xét. Phía bị đơn cho rằng, cả hai cấp tòa đều có nhận định và phán quyết thiếu căn cứ pháp luật, nhiều nội dung nhận định khiên cưỡng, không tiếp thu ghi nhận các ý kiến, chứng cứ do bị đơn cung cấp và luận cứ của Luật sư bảo vệ cho bị đơn, thiếu tính khách quan...
![]() |
| Cho rằng phán quyết của hai cấp toà không khách quan, không đúng căn cứ pháp luật, các bị đơn làm đơn kêu cứu và khiếu nại vụ án theo thủ tục giám đốc thẩm. |
Luật sư Phạm Hoài Thu (Đoàn LS TP HCM) cho rằng: Vụ án này không phức tạp, tình tiết chứng cứ cũng khá rõ ràng, nhưng hai cấp tòa lại không xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, dẫn đến phán quyết không khách quan, gây phương hại đến quyền lợi của các bị đơn.
Cụ thể, khối di sản của bà Võ Thị Nguyệt để lại ngoài 01 sổ tiết kiệm 3,8 tỷ đồng còn có 01 căn nhà, 02 kiot, nhưng Toà chỉ xem xét số tiền gửi tiết kiệm tại ngân hàng để đưa vụ án ra xét xử là chưa đảm bảo đúng quy định pháp luật. Tòa án còn có dấu hiệu bỏ sót những chứng cứ pháp lý, những tài sản liên quan, có dấu hiệu vi phạm tố tụng về việc xác định mối quan hệ pháp luật, đối tượng tranh chấp dẫn đến áp dụng luật nội dung không phù hợp. Tòa án đã bỏ qua những căn cứ pháp luật quy định bởi Luật Hôn nhân gia đình 1986, Nghị định 83/1998/NĐ-CP, Luật Nuôi con nuôi 2010, Nghị định 24/2011/NĐ-CP quy định hướng dẫn thi hành luật “Nuôi con nuôi” để xác định mối quan hệ cho/nhận con nuôi một cách phiến diện, chủ quan, không đúng pháp luật.
Cũng theo Luật sư Thu, cấp phúc thẩm chỉ dựa vào chứng cứ là bản trích lục giấy khai sinh (UBND xã An Thạnh cấp trái pháp luật), lấy lời khai nhân chứng của một số người dân để làm căn cứ xác định mối quan hệ “mẹ nuôi - con nuôi” thực tế là chưa toàn diện, thấu đáo. Bên cạnh đó, Toà án cũng cần xác định lại quan hệ tranh chấp của vụ án là “Tranh chấp về thừa kế tài sản”, chứ không phải là “Đòi lại tài sản” vì thực tế tài sản này không phải do ông Nhân sở hữu.
Từ những phân tích trên, thiết nghĩ Chánh án Toà án nhân dân Tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân Tối cao cần xem xét lại vụ án, ra Quyết định Kháng nghị giám đốc thẩm, để vụ án được giải quyết lại công bằng, khách quan, đúng pháp luật.