Thời gian gần đây, trên địa bàn cả nước xảy ra nhiều vụ cháy nghiêm trọng gây thiệt hại lớn về người và tài sản. Bên cạnh việc quy định về phòng cháy chữa cháy, các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cũng đặt ra các quy định liên quan đến trách nhiệm bồi thường thiệt hại khi xảy ra hoả hoạn, cháy nổ.
 |
| Vụ cháy xảy ra tại khu nhà xưởng ở địa bàn phường Tây Mỗ, quận Nam Từ Liêm, Hà Nội chiều ngày 13/5. Ảnh: TTXVN |
Tối ngày 13/5, Công an TP Hà Nội đã có thông tin chính thức về vụ cháy xảy ra tại khu nhà xưởng ở địa bàn phường Tây Mỗ, quận Nam Từ Liêm, Hà Nội vào chiều cùng ngày.
Trước đó, vào khoảng gần 17h cùng ngày, Tổng đài 114, Trung tâm thông tin chỉ huy Công an TP nhận tin báo cháy tại khu vực nhà xưởng số 860 Phúc Diễn, phường Tây Mỗ, quận Nam Từ Liêm, Hà Nội.
Nhận được tin báo, lực lượng Cảnh sát Phòng cháy, chữa cháy và Cứu nạn, cứu hộ, Công an thành phố Hà Nội đã nhanh chóng điều động xe chuyên dụng và hàng chục cán bộ, chiến sĩ đến hiện trường, phối hợp với lực lượng chức năng địa phương triển khai các phương án dập lửa, ngăn cháy lan.
Sau một thời gian nỗ lực chữa cháy, đến 17h40 đám cháy được khống chế, ngăn chặn cháy lan; đến khoảng 19h, đám cháy được dập tắt. Qua đó, cảnh sát PCCC&CNCH đã kịp thời ngăn chặn cháy lan, bảo vệ an toàn nhiều nhà kho xung quanh.
Theo cơ quan chức năng, vụ cháy không gây thiệt hại về người, thiệt hại về tài sản đang được thống kê, nguyên nhân cháy đang được làm rõ.
Sau những vụ việc này, dư luận đặt câu hỏi về việc nếu doanh nghiệp, nhà dân khi xảy ra cháy nhưng đám cháy lan sang nhà người khác gây thiệt hại, thì trách nhiệm đền bù thuộc về ai?
Bồi thường thiệt hại được hiểu là trách nhiệm của người có hành vi vi phạm phải bồi thường những tổn thất mà mình đã gây ra. Trên cơ sở, đánh giá cụ thể các thiệt hại đã xảy ra trên thực tế để xác định bồi thường thiệt hại khi xảy ra hoả hoạn, cháy nổ.
Bồi thường thiệt hại về vật chất và tổn thất về tinh thần khi xảy ra hoả hoạn, cháy nổ được hiểu là trách nhiệm bù đắp cho người bị thiệt hại khi bị tổn thất vật chất thực tế, tính được thành tiền do bên vi phạm gây ra; bao gồm tổn thất về tài sản, chi phí hợp lý để ngăn chặn, hạn chế, khắc phục thiệt hại; thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút, đồng thời bù đắp tổn thất về tinh thần cho người bị thiệt hại khi xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín.
Theo quy định tại Điều 584 Bộ luật Dân sự 2015 (hiệu lực 2017) thì căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong các trường hợp xảy ra hoả hoạn, cháy nổ như sau: “Trường hợp tài sản thiệt hại thì chủ sở hữu, người chiếm hữu tài sản phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp thiệt hại phát sinh theo quy định tại khoản 2 Điều này”.
Theo quy định này, trách nhiệm bồi thường thiệt hại khi xảy ra hoả hoạn, cháy nổ chỉ được thực hiện khi thỏa mãn ba điều kiện sau: Có thiệt hại xảy ra, hành vi gây thiệt hại là hành vi trái pháp luật và có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại xảy ra.
Trách nhiệm bồi thường khi xảy ra hoả hoạn, cháy nổ của cá nhân
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân sẽ phụ thuộc vào yếu tố lỗi của người thực hiện hành vi theo quy định tại Điều 584 Bộ luật Dân sự 2015.
Một là, cá nhân thực hiện đúng và đầy đủ các quy trình, các bước trong công tác phòng cháy chữa cháy nhưng do yếu tố khách quan (do phòng vệ chính đáng, sự kiện bất khả kháng, hoàn toàn do lỗi của người bị thiệt hại,..) dẫn đến xảy ra hoả hoạn, cháy nổ gây thiệt hại thì không phát sinh trách nhiệm bồi thường.
Hai là, cá nhân vi phạm các quy tắc an toàn, vi phạm quy trình thực hiện về phòng cháy chữa cháy dẫn đến xảy ra hoả hoạn, cháy nổ gây thiệt hại thì trách nhiệm bồi thường thuộc về cá nhân tương ứng với phần lỗi của mình gây ra.
Bên cạnh đó, cá nhân do thiếu trách nhiệm trong thực hiện nhiệm vụ phòng cháy chữa cháy để gây hậu quả nghiêm trọng thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật.
Ba là, trong trường hợp không có lỗi hoặc có lỗi vô ý và thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế của mình thì người chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại có thể được giảm mức bồi thường.
Trách nhiệm bồi thường khi xảy ra hoả hoạn, cháy nổ của pháp nhân
Căn cứ theo Điều 87, 597 Bộ luật Dân sự 2015 quy định:
“Pháp nhân phải bồi thường thiệt hại do người của mình gây ra trong khi thực hiện nhiệm vụ được pháp nhân giao; nếu pháp nhân đã bồi thường thiệt hại thì có quyền yêu cầu người có lỗi trong việc gây thiệt hại phải hoàn trả một khoản tiền theo quy định của pháp luật”.
Quy định như vậy, nếu trong trường hợp trụ sở của pháp nhân gặp hoả hoạn, cháy nổ thì pháp nhân đó có trách nhiệm bồi thường thiệt hại về những thiệt hại xảy ra với các nhà dân xung quanh. Cho dù thiệt hại này do người của pháp nhân gây ra thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại trước hết là trách nhiệm của pháp nhân. Bồi thường thiệt hại về vật chất và tổn thất về tinh thần cho người bị thiệt hại khi xảy ra hoả hoạn, cháy nổ.
Khi phát sinh thiệt hại từ các vụ hoả hoạn, cháy nổ, điều đầu tiên là xác định tính chất của vụ việc, nguyên nhân làm cơ sở để xác định lỗi, qua đó xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Hiện trường vụ hoả hoạn, cháy nổ luôn trong tình trạng đổ vỡ kết cấu xây dựng, khói bụi, khí - hóa chất độc hại và các tiềm ẩn nguy cơ khác. Điều này dẫn đến việc xác định lỗi của người của các vụ hoả hoạn, cháy nổ gặp rất nhiều khó khăn. Do đó, việc xác định chủ thể có trách nhiệm bồi thường thiệt hại cũng gặp rất nhiều khó khăn khi thực hiện.
| Những trường hợp loại trừ không được chi trả bảo hiểm cháy, nổ Nghị định số 67/2023/NĐ-CP ngày 6/9/2023 của Chính phủ quy định rõ những trường hợp loại trừ không được chi trả bảo hiểm cháy, nổ. Cụ thể, doanh nghiệp bảo hiểm không có trách nhiệm bồi thường bảo hiểm cháy, nổ trong các trường hợp sau: - Động đất, núi lửa phun hoặc những biến động khác của thiên nhiên; - Thiệt hại do những biến cố về chính trị, an ninh và trật tự an toàn xã hội gây ra; - Tài sản bị đốt cháy, làm nổ theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền; - Tài sản tự lên men hoặc tự tỏa nhiệt; tài sản chịu tác động của một quá trình xử lý có dùng nhiệt. - Sét đánh trực tiếp vào tài sản được bảo hiểm nhưng không gây cháy, nổ; - Nguyên liệu vũ khí hạt nhân gây cháy, nổ; - Máy móc, thiết bị điện hay các bộ phận của thiết bị điện bị thiệt hại do chịu tác động trực tiếp của việc chạy quá tải, quá áp lực, đoản mạch, tự đốt nóng, hồ quang điện, rò điện do bất kỳ nguyên nhân nào, kể cả do sét đánh; - Thiệt hại do hành động cố ý gây cháy, nổ của người được bảo hiểm; do cố ý vi phạm các quy định về phòng cháy, chữa cháy và là nguyên nhân trực tiếp gây ra cháy, nổ; - Thiệt hại đối với dữ liệu, phần mềm và các chương trình máy tính; - Thiệt hại do đốt rừng, bụi cây, đồng cỏ, hoặc đốt cháy với mục đích làm sạch đồng ruộng, đất đai. Các trường hợp loại trừ trách nhiệm bảo hiểm đối với cơ sở hạt nhân: Doanh nghiệp bảo hiểm và bên mua bảo hiểm thỏa thuận về các trường hợp loại trừ trách nhiệm bảo hiểm trên cơ sở được doanh nghiệp nhận tái bảo hiểm chấp thuận. Nghị định số 67/2023/NĐ-CP nêu rõ doanh nghiệp bảo hiểm thực hiện trách nhiệm bồi thường bảo hiểm cho các thiệt hại xảy ra đối với đối tượng bảo hiểm gồm: Nhà, công trình và các tài sản gắn liền với nhà, công trình; máy móc, thiết bị; Các loại hàng hoá, vật tư (bao gồm cả nguyên vật liệu, bán thành phẩm, thành phẩm) phát sinh từ rủi ro cháy, nổ trừ các trường hợp loại trừ bên trên. Về nguyên tắc bồi thường bảo hiểm Doanh nghiệp bảo hiểm thực hiện xem xét, giải quyết bồi thường bảo hiểm theo quy định pháp luật về kinh doanh bảo hiểm và theo nguyên tắc sau: Khi xảy ra tổn thất, bên mua bảo hiểm lập tức thông báo ngay cho doanh nghiệp bảo hiểm bằng các phương tiện thông tin liên lạc, sau đó trong thời hạn 14 ngày kể từ ngày xảy ra tổn thất đối với cơ sở có nguy hiểm về cháy, nổ phải thông báo bằng văn bản cho doanh nghiệp bảo hiểm. Giảm trừ tối đa 20% số tiền bồi thường bảo hiểm trong trường hợp cơ sở có nguy hiểm về cháy, nổ không thực hiện đầy đủ, đúng thời hạn các kiến nghị tại Biên bản kiểm tra an toàn về phòng cháy, chữa cháy của cơ quan Công an có thẩm quyền, dẫn đến tăng thiệt hại khi xảy ra cháy, nổ. Số tiền bồi thường bảo hiểm đối với tài sản bị thiệt hại không vượt quá số tiền bảo hiểm của tài sản đó (đã được thỏa thuận và ghi trong hợp đồng bảo hiểm, Giấy chứng nhận bảo hiểm) trừ đi mức giảm trừ bảo hiểm quy định ở trên. |