Nhà mạng yêu cầu chụp ảnh chân dung chủ thuê bao, nhiều bất cập chưa có lời giải đáp thỏa đáng. Trách nhiệm thuộc về ai?
Mới đây, Nghị định số 49/2017/NĐ-CP quy định, từ ngày 24/4/2018, tất cả thuê bao di động đều phải có thông tin chính xác (họ và tên, CMND, ngày cấp và nơi cấp…) bao gồm cả thông tin về đối tượng sử dụng số thuê bao đó và ảnh chụp chân dung của chủ thuê bao.
Quyền lợi phải đi đôi với trách nhiệm
Nhiều ý kiến cho rằng, quy định này còn nhiều bất cập, thiếu tính thực thi, thậm chí có ý kiến thẳng thắn nêu; Tại sao đây là một chủ trương được Chính phủ phê duyệt, nhưng khi đưa ra lại vấp phải sự phản ứng quyết liệt của dư luận?
Để tím hiểu về mặt pháp lý, PV Phapluatplus.vn đã có trao đổi với LS PhạmThanh Tuấn, Giám đốc Công ty TNHH Việt in.
LS Tuấn bảy tỏ quan điểm: "Việc doanh nghiệp viễn thông yêu cầu chụp ảnh các thuê bao là việc khiên cưỡng. Bởi lẽ, phía doanh nghiệp viễn thông chỉ đưa ra yêu cầu của mình mà không đưa ra nghĩa vụ của nhà mạng.
Tôi lấy ví dụ, nếu thông tin cá nhân của tôi bị rò rỉ, ai là người chịu trách nhiệm và mức độ cụ thể là như thế nào? Nếu là bồi thường, thì mức bồi thường là bao nhiêu? Đã là văn bản hay Nghị định cần phải rõ ràng, minh bạch, tránh tình trạng thành tích của cá nhân mà lỗi thì của tập thể.
Rõ ràng việc chụp ảnh các thuê bao là không hợp lý, không thỏa đáng, gây phức tạp và tốn kém của người dân.
Một minh chứng mới đây nhất là, các thuê bao bị làm phiền trong một thời gian dài, bằng những tin nhắn rác, với nhiều nội dung lừa đảo và làm phiền khác nhau.
Thế nhưng, nhà mạng gần như đứng ngoài cuộc. Điều này rất phi lý và không minh bạch. Vì sao trong thời buổi công nghệ thông tin phát triển như vũ bão lại khó kiểm soát những kẻ phát tán tin nhắn rác?...v...v. Trong khi nhà mạng không chịu trách nhiệm, không có ý kiến gì.Tại sao lại như vậy?
Vấn đề cần đặt ra ở đây là việc quản lý và câu chuyện trách nhiệm cần phải minh bạch, vì quyền lợi đi đôi với trách nhiệm.
Hơn nữa, việc lưu giữ, sử dụng hình ảnh cá nhân chỉ có cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Trong khi, nhà mạng cũng chỉ là một doanh nghiệp nên người dân có thể chụp hoặc không, vì điều này liên quan tới thỏa thuận giữa người cung cấp dịch vụ và người sử dụng dịch vụ.
Bên cạnh đó, cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, có thể yêu cầu hoặc giao trách nhiệm cho bộ phận an toàn an ninh mạng, chịu trách nhiệm về việc bảo mật thông tin cá nhân đối với các chủ thuê bao.
|
LS Phạm Thanh Tuấn trao đổi với PV Phapluatplus.vn. |
Tại sao lại quy định một chủ thê bao được sở hữu nhiều hơn 02 sim?
Trao đổi với Tiến sĩ (TS) Lê Quang Minh, Trưởng phòng nghiên cứu an toàn an ninh mạng, đại học Quốc gia Hà Nội, ông cho biết: Việc chụp ảnh chân dung của chủ thuê bao theo quan điểm của cá nhân tôi là đúng. Hoặc chủ thuê bao phải xuất trình chứng minh thư nhân dân.
Bởi lẽ, để đảm bảo sự an toàn cho chủ thuê bao và tiện lợi cho việc quản lý của nhà mạng. Tuy nhiên, điều tôi khó hiểu là, vì sao lại quy định, một chủ thuê bao được phép sử dụng tới ... 8 sim mà không phải là 02 sim hoặc có bao nhiêu doanh nghiệp viễn thông thì có bấy nhiều sim?.
Quản lý một người tương đương với một số thuê bao đã là việc không đơn giản, nay quản lý một người có tới ... 8 thuê bao thì quản lý thế nào?
|
TS Lê Quang Minh, trưởng phòng nghiên cứu an toàn an ninh mạng đại học Quốc gia Hà Nội. |
Cũng theo TS Minh, nếu quy định một chủ thuê bao được phép sử dụng 2 sim của hai hãng khác nhau điều này chấp nhận được; Một chủ thuê bao được phép sử dụng đến ... 8 sim như quy định hiện nay là điều khó hiểu.
Điều 32 Bộ luật Dân sự: Quyền cá nhân đối với hình ảnh 1. Cá nhân có quyền đối với hình ảnh của mình. Việc sử dụng hình ảnh của cá nhân phải được người đó đồng ý. Việc sử dụng hình ảnh của người khác vì mục đích thương mại thì phải trả thù lao cho người có hình ảnh, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác. 2. Việc sử dụng hình ảnh trong trường hợp sau đây không cần có sự đồng ý của người có hình ảnh hoặc người đại diện theo pháp luật của họ: a) Hình ảnh được sử dụng vì lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích công cộng; b) Hình ảnh được sử dụng từ các hoạt động công cộng, bao gồm hội nghị, hội thảo, hoạt động thi đấu thể thao, biểu diễn nghệ thuật và hoạt động công cộng khác mà không làm tổn hại đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của người có hình ảnh. 3. Việc sử dụng hình ảnh mà vi phạm quy định tại Điều này thì người có hình ảnh có quyền yêu cầu Tòa án ra quyết định buộc người vi phạm, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan phải thu hồi, tiêu hủy, chấm dứt việc sử dụng hình ảnh, bồi thường thiệt hại và áp dụng các biện pháp xử lý khác theo quy định của pháp luật. | |