Sáng ngày 17/6, tiếp tục Chương trình Kỳ họp thứ 7 Quốc hội khóa XV - tại Nhà Quốc hội, dưới sự chủ trì của Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn, Quốc hội thảo luận ở hội trường về “chủ trương đầu tư Dự án đầu tư xây dựng đường cao tốc Bắc - Nam phía Tây đoạn Gia Nghĩa (Đắk Nông) - Chơn Thành (Bình Phước)”
Đáng chú ý, quan tâm đến Điều 3 dự thảo nghị quyết về khai thác khoảng sản làm vật liệu xây dựng thông thường, đại biểu Nguyễn Tuấn Anh - đoàn ĐBQH tỉnh Long An nêu 06 vướng mắc khi triển khai quy định này.
Đại biểu cho biết, nội dung này đã được quy định tại Điều 4 Nghị quyết số 106/2023/QH15 của Quốc hội: Thí điểm một số chính sách đặc thù về đầu tư xây dựng công trình đường bộ.
Trong khi đó, thực tiễn triển khai Điều 4 Nghị quyết 106/2023/QH15 cho thấy còn nhiều vướng mắc về trình tự, thủ tục liên quan đến việc cấp phép các mỏ cát, mỏ đất làm vật liệu san lấp phục vụ thi công đường cao tốc.
Đại biểu Nguyễn Tuấn Anh - Đoàn ĐBQH tỉnh Long An nêu 6 vướng mắc về khai thác khoáng sản làm vật liệu xây dựng thông thường. Ảnh quochoi.vn |
Qua nghiên cứu, đại biểu cho rằng, quy định nội dung khai thác khoáng sản làm vật liệu xây dựng thông thường như dự thảo nghị quyết sẽ tiếp tục gặp 06 vướng mắc:
Thứ nhất, liên quan đến quy hoạch, khoản 1 Điều 4 Luật Khoáng sản quy định khai thác khoáng sản phải phù hợp với quy hoạch khoáng sản, nhưng trên thực tế một số mỏ vật liệu thuộc hồ sơ khảo sát nhưng lại không nằm trong quy hoạch khoáng sản.
Thứ hai, về thủ tục hành chính, dự thảo nghị quyết đã quyết định cơ chế đặc thù không phải cấp giấy phép khai thác khoáng sản, không phải thực hiện lập báo cáo đánh giá tác động môi trường.
Tuy nhiên, dự thảo nghị quyết chưa tính đến các thủ tục hành chính khác vẫn phải làm như: cấp giấy phép thăm dò khoáng sản; phê duyệt kết quả thẩm định đánh giá tác động môi trường; giấy phép môi trường.
Như vậy, nếu dự thảo nghị quyết không quy quy định cơ chế đặc thù cho phép miễn những thủ tục này, cả nhà thầu thi công và cơ quan quản lý nhà nước nhiều khả năng sẽ phải đối mặt với rủi ro pháp lý sau này.
Thứ ba, điều chỉnh giấy phép khai thác khi nâng công suất, dự thảo nghị quyết chưa có cơ chế đặc thù cho phép được miễn thủ tục điều chỉnh giấy phép khai thác đối với các mỏ đang hoạt động được phép nâng công suất khai thác để phục vụ dự án.
Nếu phải thực hiện điều chỉnh giấy phép khai thác sẽ mất rất nhiều thời gian dẫn đến không đáp ứng được tiến độ, khối lượng vật liệu phục vụ cho dự án.
Các ĐBQH lắng nghe phần thảo luận trong chương trình kỳ họp thứ 7, Quốc hội khoá XV. Ảnh quochoi.vn |
Thứ tư, về xử lý khoáng sản làm vật liệu xây dựng dư thừa là cần thiết, nhưng chưa đầy đủ trong thực tế; chưa có quy định xử lý trường hợp đào đắp, san nền có đất, đá, cát dư thừa dự án không có nhu cầu sử dụng, nhưng dự thảo nghị quyết không quy định để xử lý trường hợp này.
Thứ năm, là về chồng lấn tuyến đường lên quy hoạch khoáng sản, đại biểu cho biết, dự án cao tốc Gia Nghĩa – Chơn Thành cũng có thể gặp tình trạng nếu điều chỉnh quy hoạch khoáng sản theo trình tự thủ tục của Luật Khoáng sản và Luật Quy hoạch sẽ mất rất nhiều thời gian.
Thứ sáu, về phát hiện khoáng sản khi thi công cần được giải quyết thế nào?; nếu thực hiện theo quy định hiện hành sẽ mất rất nhiều thời gian để cơ quan có thẩm quyền quyết định việc thăm dò, khai thác, thu hồi khoáng sản.
Đại biểu nhấn mạnh, 6 vướng mắc nêu trên chắc chắn sẽ gây khó khăn ảnh hưởng lớn đến tiến độ dự án Gia Nghĩa – Chơn Thành, do vậy đại biểu kiến nghị sửa đổi bổ sung một số cơ chế chính sách đặc biệt tại Điều 3 dự thảo nghị quyết.
Trong đó, cần quy định rõ nguyên tắc việc khai thác khoáng sản phục vụ cho dự án thu hồi khoáng sản khi thi công dự án không bắt buộc phải phù hợp với quy hoạch khoáng sản, quy hoạch tỉnh đối với các mỏ vật liệu thuộc hồ sơ khảo sát.
Quy định đối với khối lượng khoáng sản làm vật liệu xây dựng thông thường dư thừa trong quá trình thi công tuyến đường, thì cho phép nhà thầu thi công cung cấp cho các công trình khác kèm theo các nghĩa vụ tài chính.
Cần giao quyền cho Thủ tướng Chính phủ quyết định điều chỉnh các quy hoạch khu vực có liên quan để đảm bảo tiến độ thiết kế của dự án.
Khi thi công trên đường nếu phát hiện khoáng sản cần phân biệt thành hai loại, một là khoáng sản làm vật liệu xây dựng thông thường; hai là khoáng sản có giá trị cao hơn khoáng sản làm vật liệu xây dựng thông thường để có cách tiếp cận, xử lý phù hợp với từng loại khoáng sản…
Đại biểu Nguyễn Tuấn Anh cũng kiến nghị một số giải pháp ngắn hạn và dài hạn, tránh phải xây dựng nghị quyết đặc thù đối với từng dự án cụ thể trong thời gian tới.
Phát biểu kết luận nội dung thảo luận, Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Đức Hải thông tin, đã có 10 đại biểu phát biểu, Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải Nguyễn Văn Thắng đã giải trình, làm rõ ý kiến đại biểu nêu. Các đại biểu tán thành sự cần thiết đầu tư xây dựng đường cao tốc Bắc - Nam phía Tây, giai đoạn Gia Nghĩa - Chơn Thành để từng bước hoàn thiện mạng lưới đường bộ cao tốc, mở ra không gian phát triển mới cho các địa phương; tăng cường liên kết vùng nói chung và liên kết nội vùng nói riêng, tạo động lực, sức lan tỏa thuận lợi kết nối Cảng hàng không quốc tế Long Thành và Cảng Cái Mép Thị Vải, phục vụ phát triển kinh tế - xã hội vùng Tây Nguyên và Đông Nam bộ, giúp tăng cường việc đảm bảo quốc phòng và an ninh. Các đại biểu tán thành với nhiều nội dung trong dự thảo nghị quyết; đồng thời đề nghị rà soát việc tuân thủ các quy hoạch, các chỉ tiêu, kế hoạch sử dụng đất, phạm vi, quy mô phân kỳ đầu tư, phân chia dự án thành phần và cũng có đại biểu lưu ý về việc kết nối đoạn qua thị trấn Đức Hòa và điều chỉnh một số tuyến. Các đại biểu cũng cho ý kiến về quy mô phân kỳ đầu tư, phân chia dự án thành phần số làn xe, làn dừng khẩn cấp, đường cong, hầm chui dân sinh, đánh giá kỹ các yếu tố tác động đến tiến độ triển khai dự án như thu hồi đất, bồi thường, bố trí tái định cư, đáp ứng nguyên liệu cho các dự án để đảm bảo tiến độ hoàn thành dự án, đánh giá ảnh hưởng của các dự án đến việc thực hiện các dự án giao thông BOT song hành. Các đại biểu đề nghị rà soát sơ bộ tổng mức đầu tư, cơ cấu vốn, khả năng bố trí vốn, nhất là khả năng của các địa phương, khả năng hấp thụ vốn, thời hạn giải ngân; cơ sở, căn cứ tính khả thi của việc đầu tư dự án theo phương thức đối tác công tư; phương án tài chính việc lựa chọn nhà đầu tư; tổ chức tín dụng tham gia đầu tư dự án. Các đại biểu cũng đề nghị việc thu hồi đất, đền bù hỗ trợ tái định cư cần công khai, minh bạch có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cấp, các ngành và các địa phương,đảm bảo ổn định cuộc sống cho người dân. Việc triển khai các chính sách đặc thù phải tiết kiệm, hiệu quả, đẩy nhanh tiến độ thực hiện dự án, không để xảy ra tham nhũng, tiêu cực. Việc phân cấp cho địa phương cần đảm bảo khả năng thực hiện, phân định rõ quyền hạn, trách nhiệm, cơ chế phối hợp của Bộ Giao thông vận tải các bộ ngành, các địa phương trong quá trình thực hiện dự án. |
Tags: