Là người con duy nhất trong gia đình, bạn có đương nhiên được thừa kế toàn bộ tài sản của bố mẹ bạn hay không?
Bạn đọc Nguyễn Quốc H. (Nghệ An) hỏi: Tôi là con trai duy nhất của bố mẹ tôi. Vậy tôi có đương nhiên được hưởng toàn bộ tài sản của bố mẹ tôi sau khi bố mẹ tôi qua đời không?
Theo Bộ luật Dân sự năm 2015, người được thừa kế di sản phải đáp ứng một số điều kiện sau đây. Thứ nhất, người đó phải còn sống vào thời điểm mở thừa kế.
Thời điểm mở thừa kế được xác định là thời điểm người sở hữu tài sản qua đời hoặc khi Tòa án tuyên bố người đó đã chết. Thứ hai, người thừa kế phải được sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế, tuy nhiên, đã qua giai đoạn thai nhi trước khi người để lại di sản qua đời.
|
Con một có đương nhiên được thừa kế tài sản của bố mẹ? (Hình minh họa) |
Hiện nay, có hai hình thức chia tài sản thừa kế, đó là theo di chúc và theo quy định của pháp luật.
Thừa kế theo di chúc
Theo quy định của Điều 626 Bộ luật Dân sự năm 2015, người để lại di sản (hay còn được gọi là người lập di chúc) có quyền phân chia và chỉ định người thừa kế cho phần di sản mà mình để lại. Điều này có nghĩa là người lập di chúc có quyền quyết định ai sẽ được thừa kế và nhận phần gia sản mà mình đã để lại.
Vì vậy, trong trường hợp cha mẹ đã lập di chúc hợp pháp để để lại tài sản cho đứa con duy nhất, thì đương nhiên đứa con đó sẽ được thừa kế theo nội dung di chúc.
Tuy nhiên, trong trường hợp di chúc không chỉ định rõ tài sản cho đứa con duy nhất, thì đứa con vẫn có thể được thừa kế một phần di sản theo quy định của pháp luật. Theo Điều 644 trong Bộ luật Dân sự năm 2015, đứa con có thể được thừa kế 2/3 phần di sản của một người thừa kế theo quy định pháp luật, nếu đứa con thuộc một trong hai trường hợp sau đây:
+ Người con chưa thành niên;
+ Người con đã thành niên nhưng không có khả năng lao động.
Cần lưu ý rằng quy định về người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc không áp dụng cho hai đối tượng sau đây:
+ Người từ chối nhận di sản theo quy định tại Điều 620 trong Bộ luật Dân sự năm 2015;
+ Người không có quyền thừa kế theo quy định tại khoản 1 của Điều 621 trong Bộ luật Dân sự năm 2015.
Tuy nhiên, theo quy định tại khoản 2 của Điều 621 trong Bộ luật Dân sự năm 2015, nếu người để lại di sản đã biết rõ hành vi của những người không được quyền thừa kế mà vẫn cho phép họ thừa kế, thì những người đó vẫn có quyền thừa kế theo di chúc.
Thừa kế theo pháp luật
Thừa kế theo pháp luật, theo quy định của Điều 649 trong Bộ luật Dân sự năm 2015, là quá trình thừa kế di sản của người đã mất theo các quy tắc về hàng thừa kế, điều kiện và trình tự được quy định trong pháp luật.
Thừa kế theo pháp luật được áp dụng trong bốn trường hợp cụ thể được quy định tại Điều 650 trong Bộ luật Dân sự năm 2015. Các trường hợp này bao gồm: (1) không có di chúc; (2) di chúc không hợp pháp; (3) người thừa kế theo di chúc đã qua đời hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc, và cơ quan, tổ chức được chỉ định nhận di sản theo di chúc không còn tồn tại vào thời điểm thừa kế được mở; (4) những người được chỉ định làm người thừa kế theo di chúc mà không được quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản.
Các người thừa kế theo pháp luật được xác định theo trình tự được quy định tại khoản 1 của Điều 651 trong Bộ luật Dân sự năm 2015. Đầu tiên là hàng thừa kế thứ nhất, gồm vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ và con nuôi của người đã mất.
Tiếp theo là hàng thừa kế thứ hai, bao gồm ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người đã mất, và cháu ruột của người đã mất mà người đã mất là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại.
Hàng thừa kế thứ ba bao gồm cụ nội, cụ ngoại của người đã mất, bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người đã mất, và cháu ruột của người đã mất mà người đã mất là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột, cháu ruột của người đã mất mà người đã mất là cụ nội, cụ ngoại.
Cần lưu ý rằng những người ở hàng thừa kế thứ hai và thứ ba chỉ được hưởng di sản khi không còn ai trong hàng thừa kế thứ nhất có mặt và không thuộc vào các trường hợp sau: (1) đã qua đời; (2) từ chối nhận di sản; (3) không có quyền hưởng di sản; (4) bị mất quyền hưởng di sản.
Điều đáng lưu ý là hàng thừa kế thứ nhất bao gồm cả đứa con (con đẻ/con nuôi) cũng như cha mẹ đẻ và cha mẹ nuôi của người đã mất (hay là ông bà của đứa con).
Vì vậy, đứa con duy nhất trong gia đình không được tự động hưởng di sản nếu: (1) di chúc thừa kế không chỉ định đối tượng này và đối tượng này không thuộc vào các trường hợp được hưởng theo di chúc; (2) đối tượng này thuộc vào các trường hợp không được hưởng di sản theo quy định pháp luật.
Điều này có nghĩa là, dù là người con duy nhất trong gia đình nhưng nếu bạn không có sự chỉ định rõ ràng trong di chúc và không thuộc vào các trường hợp được hưởng di sản theo pháp luật, thì người con đó không được đảm bảo quyền thừa kế.