Trong 2 số báo vừa rồi, chúng tôi đã lần lượt giới thiệu các cách thở: Phả cũ nạp mới, thở bằng bụng, hít thóp thở phình, thở bằng hậu môn. sau nữa, còn có cách thở kết hợp cả 3 phương pháp trên.
Sau khi đã nhớ cách hít thóp thở phình được hướng dẫn ở bài trước, còn cần làm một vận động quan trọng khác là phối hợp thở với vận động thít và nở của hậu môn, tức là khi hít khí vào thìthóp bụng lại, lưỡi để vào ngạc trên, cũng đồng thờitừ từ thít chặt hậu môn; ngược lại khi thở khí ra thì từ từ nở rộng hậu môn. Cách thở này gọi là “cách thở hồi xuân”, không ngừng tập đi tập lại, nhất định sẽ có kết quả tốt.
|
Hình minh họa. |
Bí mật từ kỹ nữ thành hoàng hậu
Triệu Phi Yến, còn gọi Hiếu Thành Triệu hoàng hậu là Hoàng hậu thứ hai của Hán Thành Đế Lưu Ngao - vị Hoàng đế thứ 12 của triều đại nhà Hán trong lịch sử Trung Quốc. Phi Yến được xem là đệ nhất mỹ nhân thời Hán bên cạnh người đẹp Vương Chiêu Quân, một trong Tứ đại mỹ nhân Trung Hoa.
Bà nổi tiếng với dung mạo tuyệt thế, thân thể nhẹ nhàng, vũ đạo uyển chuyển, tựa như chim yến nên mới có biệt hiệu là Phi Yến (có nghĩa là chim yến đang bay). Sử sách ghi về bà rất ít, song dã sử thì nhiều, vì vậy bà trở thành mộttrong những mỹ nhân phổ biến trong dân gian từ rất sớm.
“Tây Kinh tạp ký”, hay “Phi Yến ngoại truyện” đều mang hình tượng của bà làm chủ đề sáng tác. Tây kinh tạp ký ghi lại:“Triệu hậu thân thể nhẹ nhàng, vòng eo thon thả, hạnh tiến bước lui đều uyển chuyển”.
Trong văn học, Triệu Phi Yến được so sánh với Dương Quý Phi của thời Đường với câu ví nổi tiếng “Hoàn phì Yến sấu”, ý nói đến họ Dương xinh đẹp đẫy đà, trong khi Phi Yến thì thân hình thanh mảnh, uyển chuyển bay lượn tựa tiên nữ trên trời.
Theo những ghi chép của tiểu thuyết Phi Yến liệt truyện, để có làn da trắng nõn mềm mượt và tỏa ngát hương thơm, Phi Yến thường nhét vào rốn một dạng thuốc viên có tên gọi “Hương cơ hoàn”, hay "Tức cơ hoàn", được pha chế theo công thức thần bí. Loại xuân dược này có thành phần chính là xạ hương, sâm Cao Ly, lộc nhung, nhục quế, phụ tử.
Khi nhét vào rốn, quả nhiên thuốc phát huy công dụng mạnh mẽ, khiến Triệu Phi Yến luôn quyến rũ nhờ nước da nõn mượt và hừng hực sắc xuân. Nhưng Triệu hoàng hậu không ngờ, thần dược “Hương cơ hoàn”là con dao hai lưỡi. Chất độc trong thuốc, đặc biệt là xạ hương, có tác dụng giúp cho làn da trở nên sáng bóng, mịn màng nhưng lại vô cùng độc hại với phụ nữ đang mang thai. Truyền thuyết kể rằng, nàng còn có khả năng khống chế hô hấp.
Theo sách “Hậu Hán thư”, Triệu Phi Yến vốn xuấtthân từ một đào hát nên khi được triệu vào cung để phục vụ hoàng đế, người phụ nữ này đã không còn trinh nguyên.
Tuy nhiên, ngay trong đêm động phòng Triệu Phi Yến lập tức hớp hồn hoàng đế bởi thân thể ngọc ngà, kỹ năng phòng the điêu luyện và điều đặc biệt nhất là dấu vết trinh nữ còn đọng trên khăn trải giường. Hoàng đế trước sau vẫn nghĩ rằng nàng là khuê nữ nên đã hết lòng sủng ái.
Các cung nữ biết được lai lịch của Triệu Phi Yến dò hỏi thì nghe Phi Yến trả lời: “Để cho âm đạo co lạitôi đã phải tập “sử khí nội hướng” (làm cho khí hướng vào bên trong) mất 3 ngày 3 đêm.Theo SongHòa thì phương pháp “sử khí nội hướng” chính là phép nội thị, là bí quyết hồi xuân thời cổ đại. Chính sự vận động thít vào của hậu môn làm cho cơ thịt bên trong âm đạo thu nhỏ lại.
Cho nên vận động hậu môn nhiều lần cũng có sức làm cho âm đạo thu nhỏ lại.Nói một cách khác chỉ cần biết cách vận động này thì những phụ nữ đã sinh đẻ hoặc phụ nữ trung niên vẫn có thể thường xuyên giữ được“ma lực”của thanh xuân.
Muốn xinh đẹp phải bắt đầu từ bên trong
Từ xa xưa, dưỡng nhan đã là một lĩnh vực nghiên cứu của y học cổ truyền. Cổ nhân cho rằng, dưỡng nhan và “bài độc” cơ thể là không tách rời. Trầm kha (bệnh nặng kéo dài) của nội tạng là nguyên nhân chủ yếu dẫn tới bệnh biến bên ngoài da. Vì vậy mà có thuyết“ngoại tật nội trị”. Quan điểm này cũng được y học hiện đại thừa nhận. Đối với Đông y, sắc diện của người tốt hay xấu có quan hệ mật thiết với tạng Tâm.
Bởi vì, Tâm chủ huyết quản, thúc đẩy huyết dịch nuôi dưỡng toàn thân, tâm khí vượng thịnh, khí huyết và tân dịch dồi dào, chức năng tạng phủ bình thường, sắc diện ắt sẽ hồng nhuận mà sáng bóng. Nếu tâm khíbấttúc (khôngđầyđủ), tâm huyết khuyết hư ắtsắc diện trắng xanh; nếu tâm huyết tắc trở, không thông suốt, thì sắc mặt xanh tím; nếu tâm hỏa quá thịnh, mặt đỏ đồng thời đầu lưỡi còn có thể đỏ hoặc loét…
Nếu cơ thể con người khi trong trạng thái bệnh tật, sắc mặt sẽ biểu hiện ra là vàng sạm, xám bụi bặm, nhợt nhạt, có nám ban…
Do đó, Đông y cho rằng trị bệnh và thẩm mỹ, dưỡng sinh và dưỡng nhan có quan hệ mật thiết không thể phân tách. Chỉ có điều chỉnh chức năng nội tạng về bình thường, nhân thể mới có thể thực sự đạt tới dung nhan rạng rỡ.
Tuy nhiên, trong cuộc sống, nhiều người chỉ chú ý tới làm đẹp và bảo dưỡng bên ngoài, mà lại xem nhẹ việc điều chỉnh từ bên trong. Dưỡng nhan hoàn toàn không phải việc ngày một ngày hai mà là công phu của cả một quá trình lâu dài. Mặc dù đã biết hầu hết các phương thuốc giúp dưỡng nhan tốt, nhưng những thói quen sinh hoạt thường nhật không lành mạnh đã làm hiệu quả của các phương thuốc đó giảm giá trị rất nhiều.
Trước tiên, từ góc độ Đông y mà nhìn nhận, dưỡng nhan thực chất là đang dưỡng khí. Như trên đã nói, phương pháp giữ trinh nguyên và vẻ đẹp mà nàng Triệu Phi Yến sử dụng là “sử khí nội hướng”tức là đưa khí vào bên trong, làm chủ được hô hấp. Hứa Tinh Dương trong “Túy tâm tiên ca” viết rằng “Chân khí vận hành bên trong, tự nhiên phản lão hoàn đồng”.
Các nhà đạo gia cùng đề cập đến một công pháp luyện khí giúp cho da dẻ sáng đẹp, toàn thân tráng kiện, khỏe mạnh gọi là “thai tức”. Trong “Đạo tạng”lưu giữ nhiều trước tác về thai tức như “Ngọc Hoàng thai tức kinh”, “Thái Thượng dưỡng sinh thai tức khí kinh”…
Đạo giáo cho rằng luyện côngpháp thaitức là“Lấy khí hậu thiên để dẫn khí tiên thiên”,trở về trạng thái“chuyên khí chí nhu” như hài nhi. Y học hiện đại cũng như y học cổ truyền Trung Quốc cho rằng công phu thaitức thông qua rèn luyện hô hấp và khống chế ý niệm có thể tăng cường sự tích tụ nguyên khí trong cơ thể, cải thiện sự vận hành khí huyết,tăng sức đề kháng, từ đó mà đạt hiệu quả nội dưỡng thân tâm, mạnh khỏe không bệnh.
Theo Thượng Văn, các nhà dưỡng sinh học Trung Quốc hiện đại còn dựa trên cơ sở các tài liệu phục khí cổ kết hợp với phương pháp đạo dẫn, sáng chế thành bài tập phục khí hiện đại như sau: Thức dậy từ sau nửa đêm lúc khí dương bắt đầu sinh, ngồi xếp bằng ngay thẳng, mặt hướng về phía đông nam.
Gõ răng 36 lượt cho nước bọt sinh ra, chia làm 3 lần nuốt xuống; hai bàn tay chà xát vào nhau cho thật nóng rồi xoa khắp vùng mặt; dùng hai ngón tay cái chà xát vùng huyệt Thận du (dưới đốtthắtlưng thứ 2,ra 1,5cm).
Sau đó, hai tay nắm chặt lại, hít vào thật sâu, ngậm miệng nuốt xuống đồng thời phình bụng ra,sau đó dùng mũi từ từ thở ra (chú ý làm sạch mũi hoặc cắt bớtlông mũi).Cứ 1 hít-1 nuốt -1 phình -1 thở là 1 lượt. Lấy số 7 làm bội số cho số lượt mỗi lần tập (7, 14, 21…).
Đồng thời mỗi lần nuốt khí quán tưởng rằng dòng khí luân lưu khắp châu thân, ngũ tạng, thoát ra từ lòng bàn tay bàn chân, lỗ chân lông, các khiếu. Cũng có thể chuyển dòng khí tấn công vào vị trí đau bệnh trong cơ thể,tưởng tượng chỗ bệnh bị khí cuốn đi.
Phương pháp này không giống như bế khí. Bế khí là bất ngờ cắt đứtsự hô hấp đang bình thường, làm thiếu dưỡng khí; thai tức hay quy tức là thông qua tập luyện dần dần giảm thiểu nhu cầu về dưỡng khí.Y học hiện đại nghiên cứu cho thấy, tỷ lệ sử dụng lượng túi phổi của cơ thể rất thấp, khi hô hấp bình thường thì có rất nhiều túi phổi không làm việc.
Qua rèn luyện, khí công có thể giúp cơ thể sử dụng tối đa công năng của túi phổi. Tiến thêm một bước nữa, ý nghĩa chân chính của thai tức là không còn dùng mũi miệng để hô hấp nữa, mà chân khí vận hành bên trong, trao đổi chất qua da, chân lông, hô hấp tựa như thai nhi trong bào thai.
Nguyên do là bởi kích thích đốc mạch và nhâm mạch
Quay trở lại với cách thở hồi xuân, do vận động hậu môn mà sinh thực khí của nam giới bị kích thích và hoạt động lên xuống, nếu lại chịu khó luyện tập cách thở hồi xuân nữa thì có thể khống chế được sinh thực khí theo ý mình.
Thời cố đại, phàm những ai vào phái Đạo gia tu hành mà học được cách thở thì bất luận có bệnh hay không đều có giữ được sự tráng kiện. Yếu quyết của cách thở này là tuyệt đối không được cố.
Khi hít vào phải giữ một ít khi đưa vào tâm của hậu môn sau đó thót bụng lại khí cũng được hít sâu vào người, lại từ từ buông lỏng ra, không bao lâu sau sẽ có cảm giác khí thực sự đi về hướng hậu môn. Khi đã nhuần nhuyễn cách thở này rồi sẽ không còn lo bịtáo bón, đặc biệt có hiệu quả kì diệu với những bệnh mãn tính hoặc những bệnh của người lớn tuổi.
Thực hiện sau một tuần đầu óc sẽ tỉnh táo, thân thể hoạt động thoải mái. Rất nhiều thanh niên làm việc bàn giấy sau khi thực hiện phương pháp thở này thì chứng mất ngủ cũng biến mất. Theo Song Hòa, hàng ngày liên tục tập luyện “cách thở hồi xuân”thì sau sáu tháng thân thể sẽ bỗng nhiên thay đổi.
Đó là trong nội bộ cơ thể có cảm giác như một dòng điện chạy qua, toàn thân phát nóng. Không nên kinh hãi, đó chính là dòng điện trong cơ thể bạn, cũng tức là khí thông tới Nhâm mạch và Đốc mạch. Tại sao phương pháp thở hồi xuân kết hợp với vận động hậu môn lại có hiệu quả kỳ diệu như vậy?
Hãy dùng bàn tay đặt nhè nhẹ lên 2-3 phân vuông ở xương cụt cột sống. Khi thở sẽ cảm giác thấy bộ vị bàn tay hơi hơi di động lên xuống, là vì đây là nơi tập trung rất nhiều thần kinh. Đối vớithân thể, đây là nơi của những kinh lạc quan trọng và cũng là nơi có nhiều huyệt quan trọng có quan hệ với nội tạng.
Theo bác sỹ Lâm Chiêu Canh, giáo sư đại học y dược, tiến sĩ ngành châm cứu học hàng đầu của Đài Loan, “đả thông hai mạch Nhâm, Đốc thì khí huyết tự lưu thông”là câu nói thuộc lý luận về Kinh Lạc trong Đông y, đây là hai dòng mạch thuộc Kỳ kinh bát mạch. Mạch Đốc cai quản phần dương. Mạch Nhâm cai quản phần âm của cơ thể.
Đạo gia coi mặt trước thân là lâm, phía sau là dương, bởi vậy mạchNhâm ở phía trước còn mạch Đốc ở phía sau thân thể. Vậy tại sao cần đả thông hai mạch Nhâm Đốc? Bởi trong hai kinh mạch này một mạch kiểm soát tất các kinh âm (bao gồm thủ tam âm kinh – ba đường kinh âm trong cánh tay; Túc tam âm – ba đường kinh âm nằm mặt trong đùi), và một mạch kiểm soát tất cả các kinh dương (thủ tam dương kinh, túc tam dương kinh). K
hi 12 kinh mạch này có vấn đề, đầu tiên cần đả thông hai mạch này, khí huyếtsẽ được lưu thông. Trên thân thể con người có hơn một ngàn huyệt (trong đó có khoảng 360 huyệtthường được dùng để chữa bệnh) mà trong đó quan trọng nhất chính là Đốc mạch và Nhâm mạch. Nhâm Mạch khởi đầu từ huyệt Hội Âm (nơi giao nhau của mạchNhâm và mạch Đốc), đi ngược lên bụng qua giữa vùng mu, giữa bụng, giữa ngực, giữa cổ rồi kết thúc ở huyệt Thừa Tương.
Mạch này có 24 huyệt vị, nằm từ huyệt Hội Âm ở phần dưới cơ thể thẳng dọc tới huyệtThừaTương ở giữa cằm. Có thể thông qua phương pháp massage, đấm bóp, xoa bóp để đả thông kinh mạch này. Mạch Nhâm đi qua vùng bụng, người có vấn đề táo bón có thể thông qua massage các huyệt trên mạch Nhâm để cải thiện bệnh tình.
Trong các huyệt vị này, có ba huyệt rất quan trọng là: Thượng Quản, Trung Quản, Hạ Quản nằm ở phần trên, giữa và dưới của dạ dày. Người bị táo bón có thể massage dọc theo đường mạch từ huyệt Thượng Quản đến huyệt Quan Nguyên (chính là bụng trên và bụng dưới của cơ thể), từ đó dạ dày và ruột cũng sẽ hoạt động theo.
Khi mạch Nhâm đi qua vùng ngực, vấn đề tuần hoàn ở phổi cũng có thể theo đó được cải thiện. Ví dụ, bệnh nhân bị hen suyễn có thể châm cứu rồi ấn nhẹ vào huyệt Thiên Trung ở trên ngực, hoặc bệnh nhân có thể tự xoa bóp huyệt Thiên Trung để cải thiện tình trạng bệnh. Ngoài ra, huyệt Thần Khuyết(ở rốn) cũng là một huyệt vịrất quan trọng của cơ thể.
Mạch Đốc chạy từ huyệt Trường Cường phía trên hậu môn thẳng dọc lên huyệt Bách Hội ở đỉnh đầu, rồi đến huyệtThủy Câu (chính là NhânTrung), và cuối cùng kết thúc ở huyệt Ngân Giao trong khoang miệng,tại vịtrí này, mạch Đốc và mạch Nhâm giao nhau. Giới khí công có giảng về “Lưỡi đặt hàm trên”, nó chính là nơitiếp giáp của mạch Nhâm và mạch Đốc. Huyệt Trường Cường là điểm khởi đầu của mạch Đốc.
Tại sao huyệt lại có tên là Trường Cường? “cường” mang ý nghĩa mạnh mẽ, sung mãn, do đó có thể thấy tầm quan trọng của mạch Đốc. Theo giải phẫu của y học hiện đại, cơ thể người có 7 đốt sống cổ, 12 đốt sống ngực, 5 đốt sống lưng, và cuối cùng là xương cụt. Mạch Đốc vừa vặn chạy chính giữa các đốt sống này.
Do đó, các huyệt của mạch Đốc nằm tại các khe hở giữa mỗi đốtsống. Trên mạch Đốc ở sau lưng có một huyệt quan trọng là Đại Chùy. Khi ta cúi đầu xuống, chỗ nhô lên ở sau cổ, chính là đốtsống to nhất của đốtsống cổ – đốt sống thứ 7. Huyệt Đại Chùy nằm tại vị trí giữa đốtsống cổ thứ 6 và 7.
Toàn bộ hệ tuần hoàn tim phổi nằm ở phía sau ngực, huyệt Thiên Trung có thể điều trị bệnh hen suyễn, huyệt Đại Chùy trị bệnh này còn hiệu quả hơn, huyệt vị bên cạnh huyệtĐại Chùy đều có thể dùng để chữa bệnh hen suyễn.
BáchHội ở đỉnh đầu là một huyệt vị vô cùng quan trọng. Điểm giao nhau giữa đường thẳng nối 2 tai và đường thẳng từ trán đến sau gáy chính là huyệt Bách Hội.
Tại huyệt này vẽ 1 chữ thập, sau đó xoa bóp theo chiều trên dưới trái phải tại điểm này, thì sẽ hết cơn đau đầu chóng mặt. Trên mạch Đốc còn có một huyệt chăm sóc bảo vệ sức khỏe rất quan trọng là “huyệt Thân Trụ”, như ý nghĩa tên gọi của mình, huyệt này là trụ cột của toàn bộ cơ thể.
Nếu châm cứu và massage vào huyệt vị này đều có tác dụng dưỡng sinh, chăm sóc sức khỏe hiệu quả. Giải thích chi tiết như vậy để thấy rằng, hai đường Đốc mạch và Nhâm mạch, khi kích thích vào hậu môn, đồng thời cũng bị kích thích làm cho khí được tuần hoàn tạo ra năng lực hồi xuân, giúp cho thân thể khỏe mạnh. Đó chính là bí mật làm cho cách thở hồi xuân phối hợp cùng vận động hậu môn có hiệu quả to lớn.