Sau phán quyết của Toà cấp sơ thẩm và Phúc thẩm, bà Hoàng Thuỳ Khanh, trú tại phường Đông Ngạc, quận Bắc Từ Liêm, TP Hà Nội đã có đơn kiến nghị lên giám đốc thẩm.
Mới đây, bà Hoàng Thúy Khanh (SN 1949, ở số 5 ngách 39/32 đường Đông Ngạc, TDP 3, phường Đông Ngạc, quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội) là đại diện phía Bị đơn trong vụ án “Tranh chấp đòi tài sản chung là nhà thờ họ” cho biết đã làm đơn lên Giám đốc thẩm đối với bản án số 232/2023/DS-PT ngày 16/5/2023, của TAND cấp cao tại Hà Nội và Bản án số 39/3021/DS-ST ngày 30/6/2021 của TAND TP Hà Nội.
Bà Khánh kính mong Chánh án toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện trưởng viện Kiểm sát nhân dân tối cao xem xét, đánh giá lại toà bộ diễn biến của vụ việc để đảm bảo công bằng, khách quan, khi mà nhiều gia đình đã sinh sống ổn định trong hơn 70 năm qua,
Bên phía Nguyên đơn: Đại diện là ông Hoàng Việt Tấn (số 5, ngách 39/32 đường Đông Ngạc, phường Đông Ngạc, quận Bắc Từ Liêm, TP Hà Nội.
Sinh sống ổn định ở thửa đất trên 70 năm
Theo trình bày bên phía Nguyên đơn, ngôi nhà thờ được xây dựng và quyền sử đất trên thửa đất số 411, tờ bản đồ số 7 có diện tích là 3402m2 theo bản đồ năm 1987, còn theo bản đồ năm 1994, là số 18, bản đồ số 13, có diện tích là 3110m2, là tài sản của cố Hoàng Ngyễn Thự gây dựng lên khi cố Thự về định cư tại làng Đông Ngạc.
Cố Thự thuộc đời thứ 8 của dòng họ Hoàng và được tôn là Thuỷ Tổ. Họ Hoàng Đông Ngạc gồm có 5 chi, nên nhà đất trên thuộc tài sản của họ Hoàng Đông Ngạc. Đến đời thứ 13 trông nom nhà thờ là cụ Hoàng Tích Phúc.
 |
Bản án Sơ thẩm và Phúc thẩm. |
Năm 1952, cụ Phúc chết, cụ Hoàng Tích Tộ trông nom theo uỷ quyền của dòng họ nên thửa đất mang tên cụ Tộ.
Năm 1994, cụ Tộ chết, vợ chồng ông Hoàng Việt Tấn ở tại nhà thờ từ năm 1975, tiếp tục được dòng họ Hoàng giao nhiệm vụ quản lý nhà thờ và khuôn viên đất, chịu trách nhiệm hương khói cho tiên tổ, lo các cuộc họp của dòng họ và giỗ chạp,
Còn ông Toàn, ông Toản, bà Khanh sau này mới về và được dòng họ tạo điều kiện cho ở nhờ khuôn viên đất nhà thờ.
Qua thời gian, do xây dựng đã lâu nên nhà thờ tổ bị xuống cấp và đại diện dòng họ đã sửa chữa, tôn tạo để giữ lại công trình của tổ tiên đến nay. Nhà đất là tài sản của dòng họ Hoàng ở Đông Ngạc và là nhà thờ Tổ.
Còn về phía Bị đơn: địa diện là bà Hoàng Thuý Khanh cho rằng: Cụ Hoàng Tích Tộ và cụ Nguyễn Thị Tâm sinh được 04 người con là Hoàng Năng Toản, Hoàng Thiệu Toản, Hoàng Việt Tấn và Hoàng Thuý Khanh.
Hiện nay, gia đình bà Khanh cùng gia đình ông Hoàng Năng Toàn, gia đình ông Hoàng Thiệu Toản đang sinh sống trên thửa đất số 18, tờ bản đồ số 13, diện tích 3110m2 tại số 5 ngõ 39/32 đường Đông Ngạc, Tổ dân phố số 3, phường Đông Ngạc, quận Bắc Từ Liêm, Hà Nội.
Về nguồn gốc đất, bà Khanh cho biết, đất là do bố mẹ để lại cho các con. Cũng theo bà Khanh, mẹ bà là cụ Nguyễn Thị Tâm được Nhà nước giao quyền sử dụng đất từ ngày 01/8/1956, trong thời kỳ Cải cách ruộng đất, Chủ tịch Uỷ ban hành chính thành phố Hà Nội trong thời kỳ đấy là ông Trần Duy Hưng đã ký giấy giao quyền sử dụng đất cho bà Tâm.
“Trên Phiếu điều tra nguồn gốc đất, Bản đồ năm 1960, 1987, 1994 ghi rõ chủ sử dụng đất là Hoàng Tích Tộ, loại đất thổ cư, không phải đất thờ cúng.
Trong kháng chiến chống Pháp, bố tôi tham gia kháng chiến. Khi hoà bình lập lại, bố tôi vẫn công tác tại Tuyên Quang, còn mẹ tôi cùng anh chị em hồi cư về quê.
Vì vậy, giấy giao quyền sử dụng đất thời Cải cách ruộng đất mang tên mẹ tôi là Nguyễn Thị Tâm. Năm 1960, bố tôi về quê nên mọi giấy tờ kê khai về đất đều mang tên bố tôi là Hoàng Tích Tộ. Gia đình chúng tôi đã sinh sống trên thửa đất từ năm 1954 cho đến nay, tính đến nay là 71 năm”, bà Khanh cho hay.
Ngày 20/01/2021, ông Hoàng Việt Tấn, ông Hoàng Kim Đông, ông Hoàng Chí Cường, ông Hoàng Diễn Tằng, ông Hoàng Kim Đồng là những người đại diện cho Dòng họ Hoàng Đông Ngạc đã khởi kiện vụ án dân sự yêu cầu đòi lại nhà đất tại thửa đất số 18, tờ bản đồ số 13, diện tích 3110m2 mà đại gia đình bà Khanh đang sinh sống trên đấy.
Trải qua hai cấp toà sơ thẩm và Phúc thẩm đều chấp nhận yêu cầu khởi kiện của phía Nguyên đơn, xác định tài sản của Dòng họ Hoàng là Khu nhà thờ tổ họ Hoàng ở Đông Ngạc gồm có quyền sử dụng tại thửa đất số 18, tờ bản đồ số 13, diện tích 3110m2, diện tích đo đạc hiện trạng là 3.044,2m2 đất và các công trình có trên đất.
“Gia đình tôi vô cùng bàng hoàng và bức xúc vì thửa đất do chính bố mẹ tôi để lại đã được đại gia đình tôi trực tiếp sinh sống và quản lý được hơn 70 năm lại được xác định là đất của Dòng họ Hoàng ở Đông Ngạc.
Kính mong cấp Giám đốc thẩm xem xét lại toàn bộ hồ sơ của của vụ việc, để có cái nhìn khách quan, đảm bảo công bằng pháp luật để không làm ảnh hưởng đến quyền lợi của những người đang sinh sống trên thửa đất”, bà Khanh nói.
Nhiều tình tiết của vụ việc cần được làm rõ
Bảo vệ quyền lợi cho phía Bị đơn, luật sư Hà Trọng Đại (Công ty Luật TNHH Hà Trọng Đại) cho rằng: Trong vụ án “Tranh chấp đòi tài sản chung là nhà thờ họ” còn nhiều tình tiết cần được làm rõ, mà cả hai cấp Sơ thẩm và Phúc thẩm đều bỏ qua, để tuyên bản án làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền lợi của những gia đình đang sinh sống trên thửa đất trên.
Theo luật sư Hà Trọng Đại, Tòa án sơ thẩm đã xác định sai quan hệ pháp luật tranh chấp: Tại Bản án sơ thẩm số 39/2021/DS-ST ngày 30/6/2021 của Tòa án nhân thành phố Hà Nội đã xác định tranh chấp giữa Nguyên đơn với Bị đơn là “Tranh chấp đòi tài sản chung là nhà thờ họ”.
Theo Thông báo thụ lý vụ án số 05/TB-TLVA ngày 06/4/2021, Tòa án sơ thẩm đã thụ lý vụ án trên cơ sở; Đơn khởi kiện ngày 20/01/2021của các ông Hoàng Việt Tấn, Hoàng Kim Đông, Hoàng Chí Cường, Hoàng Diễn Tằng, Hoàng Kim Đồng; Đơn giải trình bổ sung yêu cầu khởi kiện ngày 25/3/2021 của ông Hoàng Kim Đồng (Đại diện cho các Nguyên đơn của 5 chi Họ Hoàng Đông Ngạc).
 |
Trích lục bản đồ và Phiếu điều tra nguồn gốc đất. |
Căn cứ Điều 164 Bộ luật Dân sự năm 2015 (“BLDS”) quy định về biện pháp bảo vệ quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản và Điều 166 BLDS 2015 quy định về quyền đòi lại tài sản, chỉ có chủ sở hữu mới có quyền đòi lại tài sản và yêu cầu Tòa án buộc người có hành vi xâm phạm quyền trả lại tài sản.
“Như vậy, Nguyên đơn không có tài liệu của Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền chứng minh diện tích nhà đất tranh chấp thuộc quyền sử dụng của dòng họ Hoàng ở Đông Ngạc.
Việc Nguyên đơn chưa được công nhận quyền sử dụng đất mà Tòa án sơ thẩm đã xác định tranh chấp đòi lại tài sản chung nhà thờ họ là không đúng quy định của pháp luật, bởi tranh chấp trong vụ án này là tranh chấp ai là người có quyền sử dụng đất”, luật sư Hà Trọng Đại cho biết.
Luật sư Đại cũng cho hay, Tòa án sơ thẩm đã thụ lý vụ án khi Nguyên đơn “chưa có đủ điều kiện khởi kiện”: Tại các Đơn khởi kiện, Đơn giải trình bổ sung yêu cầu khởi kiện, Nguyên đơn không gửi kèm Biên bản hòa giải tranh chấp đất đai tại Ủy ban nhân dân phường Đông Ngạc.
Tức là Nguyên đơn chưa thực hiện việc hòa giải tranh chấp đất đai tại UBND phường Đông Ngạc với phía Bị đơn trước khi khởi kiện.
Như vậy, Nguyên đơn chưa đủ điều kiện khởi kiện quy định tại điểm b Khoản 1 Điều 192 BLTTDS.Việc Tòa án sơ thẩm thụ lý vụ án khi Nguyên đơn chưa đủ điều kiện khởi kiện là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, gây ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của Bị đơn.
Luật sự Đại còn cho biết, Tòa án sơ thẩm và Toà án cấp phúc thẩm đã sử dụng giấy tờ, tài liệu của cá nhân ở nước ngoài gửi về không có giá trị pháp lý tại Việt Nam, tiến hành thủ tục thẩm định giá tài sản trái quy định, tại Biên bản làm việc ngày 14/5/2021, các bên đương sự trong vụ kiện đều không đưa ra được giá trị các công trình, cây cối cũng như giá trị QSD đất và đề nghị Tòa án tiến hành thủ tục định giá theo quy định pháp luật.Tòa án đã ký hợp đồng với Công ty cổ phần Định giá và Dịch vụ tài chính Việt Nam để tiến hành định giá tài sản nhà đất, công trình, cây cối trên đất.
Việc lựa chọn Tổ chức thẩm định giá tài sản là quyền tự do thỏa thuận của các đương sự, chứ không do Tòa án tự động chỉ định và ký hợp đồng thẩm định giá với Tổ chức thẩm định giá.
Do đó, trong vụ án này, việc tòa án sơ thẩm là chủ thể ký Hợp đồng thẩm định giá với Công ty CTCP Định giá và Dịch vụ tài chính Việt Nam ngày 06/5/2021 là vi phạm quy định tại Khoản 2 Điều 104 BLTTDS.
Đây là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng về định giá tài sản, hậu quả pháp lý là Hợp đồng thẩm định giá và Chứng thư thẩm định giá là vô hiệu, không có giá trị pháp lý.
Tuy nhiên, Toà án cấp sơ thẩm và cấp phúc thẩm đã sử dụng tài liệu chứng cứ này để giải quyết vụ án, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn.
Hơn nữa, theo luật sư Hà Trọng Đại, tòa án cấp sơ thẩm và Toà án cấp phúc thẩm đã đánh giá chứng cứ không khách quan, không chính xác trong việc xác định nguồn gốc đất.
Tòa án sơ thẩm đã căn cứ vào Bản án số 75/2007/DS-ST ngày 08,09/11/2007 của TAND thành phố Hà Nội và Bản án số 113/2008/DS-PT ngày 04/04/2008 của TAND tối cao để làm căn cứ xác định nguồn gốc đất.
Cả hai bản án nêu trên đều tuyên: “cổng cổ, nhà cổ, sân gạch, bể nước tọa lạc trên diện tích đất mà cụ Tộ đứng tên kê khai trong các sổ mục kê vào các năm 1960, 1987, 1994 các nguyên đơn đều không chứng minh được do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền giao cho, hay cụ Tộ được thừa kế, hoặc được tặng cho… HĐXX thấy có đủ căn cứ xác định các tài sản cổ hiện tọa lạc trên diện tích đất 3.030m2 đo thực tế tại xóm 3 xã Đông ngạc, Từ liêm, Hà Nội không phải là di sản của cụ Hoàng Tích Tộ…”
Có thể thấy, hai bản án nêu trên đều xác định tài sản trên đất là cổng cổ, nhà cổ, sân gạch, bể nước và diện tích nhà Thờ họ Hoàng gồm nhà thờ được xây gạch khung gỗ lim, lợp ngói rộng trên 100 m2 là của Dòng họ Hoàng chứ không khẳng định toàn bộ diện tích 3110m2 là của Dòng họ Hoàng.
"Do đó, trong vụ án, việc xác định nguồn gốc đất phải căn cứ vào Phiếu điều tra nguồn gốc đất, Trích lục bản đồ năm 1960, Trích lục bản đồ năm 1987 và Trích lục bản đồ năm 1994.
Nội dung đều thể hiện chủ sử dụng đất là ông Hoàng Tích Tộ (bố của các bị đơn) và loại đất sử dụng là đất thổ cư chứ không phải đất thờ cúng", luật sư Đại nói.
Cũng theo luật sư Hà Trọng Đại, theo Điều 100 Luật đất đai năm 2013 quy định về Cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cho hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư đang sử dụng đất có giấy tờ về quyền sử dụng đất như sau: Các loại giấy tờ khác được xác lập trước ngày 15 tháng 10 năm 1993 theo quy định của Chính phủ.
Theo Điều 18 Nghị định 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 quy định Giấy tờ khác về quyền sử dụng đất quy định tại Điểm g Khoản 1 Điều 100 của Luật Đất đai như sau:
“Các giấy tờ khác lập trước ngày 15 tháng 10 năm 1993 theo quy định tại Điểm g Khoản 1 Điều 100 của Luật Đất đai có tên người sử dụng đất, bao gồm: Sổ mục kê đất, sổ kiến điền lập trước ngày 18 tháng 12 năm 1980.”
“Theo quy định trên, Phiếu điều tra nguồn gốc đất, Trích lục bản đồ năm 1960, Trích lục bản đồ năm 1987 và Trích lục bản đồ năm 1994 là các giấy tờ quy định tại khoản 1 Điều 100 Luật Đất đai năm 2013 để làm căn cứ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Bên cạnh đó, tất cả các giấy tờ nêu trên còn thể hiện ông Hoàng Tích Tộ đã sử dụng đất ổn định, lâu dài và liên tục từ năm 1954 cho đến năm 1994 là 39 năm và hiện nay các bị đơn đang quản lý, sử dụng ổn định”, luật sư Hà Trọng Đại nhấn mạnh.
Nó còn thể hiện rất rõ trong các Điều 236, Điều 180, Điều 182, của BLDS 2015, về việc xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu do chiếm hữu, Chiếm hữu ngay tình và chiếm hữu liên tục...
“Căn cứ vào các giấy tờ nêu trên và đối chiếu với quá trình quản lý sử dụng của các gia đình bị đơn, việc công nhận quyền sử dụng đất cho các bị đơn là có căn cứ pháp luật.
Tuy nhiên, Tòa án sơ thẩm và cấp phúc thẩm đã không căn cứ vào các loại giấy tờ được Luật đất đai quy định để xác định nguồn gốc đất và việc xác lập sở hữu đối với bất động sản đề công nhận quyền sử dụng đất cho các bị đơn, như vậy là áp dụng không đúng quy định của pháp luật, không khách quan, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn”, luật sư Hà Trọng Đại cho hay.