Theo quy hoạch của Chính phủ tốc độ tăng trưởng bình quân từ 5,5 – 6,1%/năm, hành khách tăng trưởng bình quân từ 1,1 – 1,25%/năm. Hình thành cảng cửa ngõ khu vực ĐBSCL.
Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1579/QĐ-TTg phê duyệt quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống cảng biển Việt Nam 2021-2030, tầm nhìn đến 2050. Trong đó có 12 cảng biển thuộc khu vực ĐBSCL (Cần Thơ, Đồng Tháp, Tiền Giang, Vĩnh Long, Bến Tre, An Giang, Hậu Giang, Sóc Trăng, Trà Vinh, Cà Mau, Bạc Liêu và Kiên Giang).
Được biết, cảng biển là bộ phận quan trọng của kết cấu hạ tầng hàng hải, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, được xác định là 1 trong 3 khâu đột phá chiến lược, cần ưu tiên đầu tư bảo đảm hài hoà giữa phát triển kinh tế - xã hội với quốc phòng - an ninh và an sinh xã hội, thích ứng với biến đổi khí hậu; góp phần giữ vững độc lập, chủ quyền biển đảo, tăng cường hợp tác quốc tế về biển, duy trì môi trường hoà bình, ổn định và phát triển bền vững.
Phát triển kết cấu hạ tầng hàng hải đồng bộ, hiện đại, bảo đảm an toàn, an ninh hàng hải, kết nối hiệu quả phương thức vận tải; phát huy lợi thế là phương thức chủ đạo vận tải hàng hoá khối lượng lớn, đóng vai trò quan trọng trong vận tải hàng hoá quốc tế, góp phần giảm chi phí logistics.
Theo ông Nguyễn Xuân Sang, Thứ trưởng Bộ Giao thông vận tải (GTVT) cho biết “dự báo đến năm 2030, sản lượng hàng hóa thông qua toàn hệ thống cảng biển Việt Nam gấp 1,6 - 2,1 lần; năm 2050 gấp 4,1 - 4,8 lần so hiện nay. Để đáp ứng nhu cầu hàng hóa thông qua, hệ thống cảng biển Việt Nam được hoạch định phù hợp quy định pháp luật, lợi thế tự nhiên và nhu cầu phát triển kinh tế của từng vùng, phân cấp vai trò của từng cảng và định hướng các phương thức kết nối,… tạo thành một chỉnh thể thống nhất”.
Phát huy lợi thế về địa lý, gắn kết với không gian phát triển kinh tế, đô thị; tập trung phát triển các cửa ngõ quốc tế có khả năng tiếp nhận các tàu biển có trọng tải lớn đi các tuyến biển xa; tận dụng điều kiện tự nhiên, phát triển hài hoà, hợp lý giữa các cảng biển và không gian phát triển đô thị giữa cảng biển với kết cấu hạ tầng cảng cạn, bến phà và khu neo chuyển tải.
Huy động mọi nguồn lực, đặc biệt là nguồn lực ngoài ngân sách để đầu tư đồng bộ, có trọng tâm trọng điểm hệ thống kết cấu hạ tầng hàng hải công cộng, đặc biệt là cảng cửa ngõ quốc tế; tiếp tục phát huy hiệu quả việc phân cấp, phân quyền về huy động nguồn lực, tổ chức thực hiện cho địa phương.
Chủ động tiếp cận, đẩy mạnh ứng dụng thành tựu của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 trong xây dựng,quản lý khai thác, hướng tới xây dựng cảng biển xanh, tiết kiệm năng lượng, sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên thiên nhiên đường bờ, mặt nước.
Đồng thời, Chính phủ hướng đến mục tiêu năm 2030 là phát triển hệ thống cảng biển đồng bộ, hiện đại, dịch vụ chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng – an ninh, an toàn hàng hải và bảo vệ môi trường, nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, góp phần đưa nước ta cơ bản trở thành nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình vào năm 2030 với một số chỉ tiêu cụ thể;
Về năng lực: đáp ứng nhu cầu xuất nhập khẩu hàng hoá, giao thương giữa các vùng, miền trong cả nước và hàng trung chuyển quá cảnh cho các nước trong khu vực, cũng như khu vận tải hành khách nội địa và quốc tế. Hệ thống cảng biển đáp ứng thông qua lượng hàng hoá từ 1.140 đến 1.423 triệu tấn (trong đó hàng container từ 38 – 47 triệu TEU); hành khách từ 10,1- 10,3 triệu lượt khách.
Ngoài ra đối với các cảng biển có quy hoạch tầm nhìn đến năm 2050. Năng lực hệ thống cảng biển đáp ứng nhu cầu thông qua hàng hoá với tốc độ tăng trưởng bình quân khoảng 4,0 – 4,5%/năm; hành khách tăng trưởng bình quân từ 1,2 – 1,3%/ năm.
Được biết hệ thống quy hoạch cảng biển, Chính phủ phân chia thành 5 nhóm để ưu tiên phát triển. Trong đó ĐBSCL là nhóm cảng biển số 5 gồm 12 cảng biển (Cần Thơ, Đồng Tháp, Tiền Giang, Vĩnh Long, Bến Tre, An Giang, Hậu Giang, Sóc Trăng, Trà Vinh, Cà Mau, Bạc Liêu và Kiên Giang). Quy mô chức năng hệ thống các cảng biển này được phân theo cảng biển loại 3.
Bên cạnh đó, Chính phủ cũng quy hoạch phân loại bến cảng theo chủng loại hàng hoá xếp dỡ; bến cảng tổng hợp; bến cảng container, bến cảng hàng rời, bến cảng hàng lỏng/khí và bến cảng khách. Đồng thời, các cảng ĐBSCL nằm trong nhóm cảng biển số 5 với cảng biển Cần Thơ là trung tâm. Qua đó phát triển có hiệu quả về quy mô, tiến trình đầu tư các cảng biển trong Vùng (bao gồm Bến Tre, Tiền Giang, Đồng Tháp, Vĩnh Long, An Giang, Hậu Giang, Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau và Kiên Giang) phù hợp với phát triển kinh tế - xã hội của từng địa phương, đồng bộ với quy hoạch và khả năng cân đối nguồn lực để cải tạo, nâng cấp các luồng tàu biển. Như vậy đến năm 2030 hàng hoá dự kiến lưu thông từ 64 - 80 triệu tấn (hàng container từ 0,6 – 0,8 triệu TEU); hành khách từ 6,1 – 6,2 triệu lượt khách.
Tầm nhìn đến năm 2050 của nhóm cảng biển này, sẽ đáp ứng nhu cầu thông qua hàng hoá với tốc độ tăng trưởng bình quân từ 5,5 – 6,1%/ năm, hành khách tăng trưởng bình quân từ 1,1 – 1,25%/ năm. Hình thành cảng cửa ngõ khu vực ĐBSCL.
Chia sẻ với Pháp luật Plus, Phó Cục trưởng Cục Hàng hải Việt Nam Nguyễn Đình Việt nhận định “ĐBSCL có vị thế, vai trò rất quan trọng trong phát triển kinh tế của Việt Nam. Được xem là vựa lúa, vựa trái cây, vựa thủy sản của cả nước khi vùng đồng bằng này đóng góp 50% sản lượng lúa, 95% sản lượng gạo xuất khẩu, 70% các loại trái cây, 65% sản lượng nuôi trồng thủy sản và 60% sản lượng cá xuất khẩu của cả nước. Từ vị thế đó, vai trò của ĐBSCL, Đảng, Nhà nước luôn quan tâm đến việc phát triển cơ sở hạ tầng giao thông nói chung, hạ tầng cảng biển nói riêng để ĐBSCL tiếp tục phát huy thế mạnh, tăng cường kết nối logistics, tạo động lực thu hút đầu tư, phát triển kinh tế xã hội của Vùng, nâng cao chất lượng cuộc sống nhân dân và hội nhập kinh tế quốc tế.”
Phát triển cụm cảng biển Cần Thơ bao gồm (Cái Cui, Hoàng Diệu, Trà Nóc – Ô Môn, Thốt Nốt, Bến cảng khách quốc tế Cần Thơ và các phao neo, đậu, chuyển tải…) là định hướng phát triển chung kinh tế - xã hội vùng ĐBSCL kết hợp tiếp chuyển hàng cho vương quốc Cambodia theo tuyến sông Hậu; có bến tổng hợp; Container; hàng lỏng/khí; bến cảng phục vụ khách quốc tế và các tuyến du lịch nội địa liên vùng kết hợp với khai thác các tàu chở hàng sạch đảm bảo vệ sinh môi trường.
“Thực tế cho thấy dịch vụ logistics phát triển mạnh ở các quốc gia có nền tảng cơ sở hạ tầng vững chắc, đặc biệt là cơ sở hạ tầng cảng biển. Cảng biển đóng vai trò quan trọng, quyết định sự phát triển ngành dịch vụ logistics của mỗi quốc gia có biển. Là vùng kinh tế ở vị trí trung tâm khu vực Asean, ĐBSCL có lợi thế rất lớn trong giao thương kết nối với các vùng miền, các quốc gia trong khu vực thông qua vận tải thủy, do đó cảng biển có vai trò rất quan trọng trong việc định hình và tổ chức các mô hình vận tải kết nối từ Đồng bằng sông Cửu Long với các vùng kinh tế khác trong nước và quốc tế” ông Việt cho biết thêm.