Mới đây, Bộ Tài chính vừa hoàn thiện dự thảo thông tư hướng dẫn quản lý, thu chi tài chính cho công tác tổ chức lễ hội và tiền công đức, tài trợ cho di tích và hoạt động lễ hội. Quy định này nhằm quản lý chặt chẽ nguồn tiền công đức, tài trợ cho các hoat động nêu trên. (xem chi tiết dự thảo tại đây)
Đáng chú ý, sau khi Dự thảo Thông tư lần 2 ban hành cuối tháng 4/2021, nhiều ý kiến đóng góp đã được gửi đến bộ phận phụ trách.
Theo đại diện Bộ Tài chính, Dự thảo Thông tư hướng dẫn thực hiện Nghị định 110/2018/NĐ-CP của Chính phủ quy định về quản lý và tổ chức lễ hội.
Nhiều ý kiến băn khoăn, cần làm sáng tỏ
Liên quan đến việc góp ý cho Dự thảo Thông tư trên của Bộ Tài chính, Hội đồng Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam đã có văn bản gửi Ban Trị sự Giáo hội Phật giáo các tỉnh, thành phố để cho ý kiến đóng góp về nội dung của Dự thảo Thông tư.
Hiện tại đã có một số văn bản góp ý gửi về Hội đồng Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam và Bộ Tài chính. Cụ thể, tại văn bản góp ý của Giáo hội Phật giáo Việt Nam tỉnh Quảng Ninh, Hòa thượng Thích Thanh Quyết - Trưởng Ban Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam tỉnh Quảng Ninh cho rằng: Dự thảo này chỉ phù hợp áp dụng đối với việc quản lý các lễ hội và di tích bình thường, qua đó đảm bảo sự công khai, minh bạch chứ không phù hợp với lễ hội và di tích tôn giáo (như chùa của Phật giáo, nhà thờ của Công giáo…).
Do đó, Ban Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam tỉnh Quảng Ninh đề nghị Bộ Tài chính không đưa vào quản lý tiền công đức đối với các di tích là chùa, nhà thờ dù đã được kiểm đếm danh mục di tích.
Ban Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam tỉnh Quảng Ninh cũng cho rằng, các chùa thờ Phật là các cơ sở Phật giáo nếu có giá trị được nhà nước xếp hạng di tích thì các hoạt động Phật giáo tại các chùa đó vẫn diễn ra bình thường (Theo Luật Tín ngưỡng, tôn giáo). Việc xếp hạng di tích không đồng nghĩa với việc quốc hữu hóa di tích.
Ban Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam tỉnh Quảng Ninh cũng đưa ra luận cứ chứng minh:
Thứ nhất, trong số 27 chức năng, nhiệm vụ quyền hạn của Bộ Tài chính được quy định trong Luật ngân sách không có quy định quản lý tiền công đức do các cá nhân quyên góp ủng hộ tự nguyện.
Ngoài ra, các chùa nếu được Nhà nước xếp hạng di tích thì cũng "không đồng nghĩa với việc quốc hữu hóa di tích". Bản chất của tiền công đức là lòng thành của Phật tử, thể hiện sự thành kính đối với tôn giáo mà họ tin theo, được đóng góp một cách tự nguyện, không chịu bất cứ một ép buộc nào.
Điều 56, Luật tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016 cũng quy định tiền công đức tại các chùa Phật giáo là tài sản của Giáo hội, được ủy quyền cho nhà sư trụ trì trông coi và toàn quyền sử dụng.
Khoản 5, điều 7, Luật tín ngưỡng, tôn giáo quy định nhà chùa được "nhận tài sản hợp pháp do tổ chức, cá nhân trong nước và tổ chức, cá nhân nước ngoài tự nguyện tặng cho". Do đó, khoản 4, điều 2 trong dự thảo thông tư quy định: "Tiền công đức được để lại toàn bộ cho cơ quan, đơn vị... quản lý và sử dụng di tích" là "không hợp hiến, hợp pháp".
Tại văn bản này, Ban trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam tỉnh Quảng Ninh cũng đề nghị Bộ Tài chính phải lấy ý kiến của 16 tôn giáo và gần 40 tổ chức tôn giáo hiện đang hoạt động tại Việt Nam.
Cùng bàn luận về Dự thảo Thông tư này, Ban Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam tỉnh Nghệ An đưa ra ý kiến: Cơ quan chức năng cần nghiên cứu, xem xét thêm một số vấn đề để khi đưa vào quy định nhằm đảm bảo tính khả thi trong quá trình triển khai thực hiện (đặc biệt trong công tác quản lý, tổ chức thực hiện):
Ví dụ: Việc thẩm định giá cho hiện vật là kim loại quý, đá quý (tại khoản c Điều 5): trong trường hợp người dân đưa những tượng, đồ thờ, pháp khí (tượng cổ, tượng giải thiêng…) vào chùa thì việc định giá thường xuyên sẽ gặp nhiều khó khăn (cần phải có chuyên gia có chuyên môn, kinh phí tổ chức…) bởi việc định giá cho loại hình tài sản này không chỉ xét dưới góc độ kinh tế.
Về đối tượng: cần cụ thể hóa đối tượng di tích, lễ hội (tiêu chí, phân loại di tích, lễ hội truyền thống?). Bởi trên thực tế, có nhiều công trình thờ tự xây dựng mới nhưng trên nền di tích cũ, hoặc có nhiều công trình/cơ sở thờ tự xứng đáng là di tích nhưng chưa được công nhận/không được đề nghị công nhận di tích; có những lễ hội mới được phục hồi trên cơ sở lễ hội truyền thống v.v…
Việc giao quản lý di tích là cơ sở tôn giáo hiện nay còn nhiều bất cập trong phối hợp giữa cơ quan quản lý nhà nước với cá nhân/tổ chức quản lý hoạt động tại các cơ sở tôn giáo (đặc biệt là đối với những cơ sở tôn giáo là di tích), vì vậy việc xem xét, quy trách nhiệm còn gặp khó khăn v.v…
Tiền công đức là gì?
Tiền công đức (tên gọi truyền thống là: tiền giọt dầu, đặt lễ, cúng dường...) đến nay chưa có định nghĩa cụ thể tại bất kỳ văn bản pháp luật nào, nhưng trong thực tiễn và truyền thống văn hoá tại Việt Nam, thuật ngữ này được sử dụng riêng hoặc tạo sự liên tưởng ngay đến Phật giáo. Tiền công đức là tài sản mà tổ chức tôn giáo được phép tiếp nhận và được công nhận quyền sở hữu theo quy định của Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016 (“Luật TNTG”) phù hợp với quy tắc chung của Bộ luật dân sự về bảo hộ quyền sở hữu tài sản riêng của pháp nhân phi thương mại.
Không thiếu quy định pháp luật về quản lý tiền công đức
Xung quanh những nội dung này, Pháp luật Plus đã có cuộc trao đổi với Th.S Nguyễn Thanh Hà, chuyên gia pháp lý (Đoàn Luật sư TP Hà Nội).
Th.S Nguyễn Thanh Hà cho biết, đây là vấn đề được xã hội rất quan tâm thời gian qua nhưng có thực sự đang thiếu quy định về quản lý tiền công đức, cần đưa quy định về can thiệp, quản lý trực tiếp của Nhà nước đối với tiền công đức trong Thông tư này không?
Một trong các nguyên nhân dẫn đến quan điểm nhầm lẫn này (Dự thảo lần 2) của Bộ Tài chính là do các di tích văn hóa, lịch sử tại Việt Nam thường gắn với các chùa, tự viện của Giáo hội Phật giáo Việt Nam do đặc thù của lịch sử, truyền thông văn hóa. Xét cả ở góc độ pháp lý và thực tiễn thì “tiền công đức” và tiền “tài trợ cho di tích, hoạt động lễ hội” có bản chất pháp lý khác nhau và chịu sự điều chỉnh của hai hệ thống văn bản pháp luật khác nhau.
Th.S Nguyễn Thanh Hà cho rằng, tiền công đức và tiền tài trợ cho di tích và hoạt động lễ hội cần phải được phân biệt rõ như sau: Tiền công đức là một tài sản của tổ chức tôn giáo, thuộc quyền sở hữu riêng của tổ chức tôn giáo nên được tổ chức tôn giáo tự mình quyết định việc quản lý, sử dụng, định đoạt theo khoản 5, Điều 21 và Điều 56 Luật Tín ngưỡng Tôn giáo. Quyền đối với tài sản thuộc sở hữu riêng của tổ chức tôn giáo được Nhà nước bảo hộ theo các quy định tại khoản 3 Điều 3, khoản 6 Điều 7 Luật Tín ngưỡng Tôn giáo và nguyên tắc về bảo hộ quyền tài sản tại Bộ luật Dân sự hiện hành.
Tiền tài trợ cho di tích và hoạt động lễ hội là các khoản quyên góp, tài trợ, đóng góp tự nguyện của cá nhân, tổ chức cho mục đích bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hoá, lịch sử, thuộc sự quản lý của cơ quan quản lý nhà nước về hoạt động văn hoá, di tích theo quy định của Luật Di sản văn hoá năm 2001 (được sửa đổi bổ sung năm 2009) và các văn bản hướng dẫn.
Xuất phát từ việc xác định không đúng về đối tượng điều chỉnh, các quy định liên quan đến nguyên tắc góp, tiếp nhận tiền công đức và quản lý thu, chi tiền công đức cũng chưa phù hợp.
Cụ thể, việc khoản 4, Điều 2 Dự thảo Thông tư quy định nguyên tắc “Tiền công đức... không thuộc sở hữu cá nhân và không phản ánh vào ngân sách Nhà nước; Được để lại toàn bộ cho cơ quan, đơn vị tổ chức lễ hội, quản lý di tích sử dụng cho các hoạt động lễ hội, quản lý và sử dụng di tích” là không phù hợp.
Th.S Nguyễn Thanh Hà phân tích: Thứ nhất, không có cơ sở khẳng định tiền công đức không thuộc sở hữu cá nhân vì theo văn hoá và truyền thống về thực hành tín ngưỡng, tôn giáo tại Việt Nam thì chủ yếu người cho tặng vật, tiền trong trường hợp này có ý chí hướng đến các nhà tu hành nên tài sản thuộc sở hữu riêng hợp pháp của cá nhân nhận cho tặng cho.
Thứ hai, việc tặng, cho thường gắn với niềm tin tâm linh và người tặng, cho cũng không quan tâm hoặc không cần được cam kết về mục đích sử dụng số tiền, tài sản tặng cho đó.
Theo quan điểm của Th.S Nguyễn Thanh Hà, từ những phân tích trên, không cần thiết và không nên ban hành các quy định việc Nhà nước quản lý, sử dụng “tiền công đức” mà Nhà nước chỉ tăng cường chức năng kiểm tra, giám sát theo đúng thẩm quyền trong các trường hợp có dấu hiệu vi phạm pháp luật. Đặc biệt đối với các cơ sở tôn giáo đã tự chủ hoàn toàn, thậm chí tự chủ được cả nguồn kinh phí phục vụ cho hoạt động văn hoá tâm linh, lễ hội truyền thống và các hoạt động thiện nguyện khác mà không cần sử dụng vốn ngân sách Nhà nước thì việc kiểm soát trực tiếp việc thu, chi tiền công đức lại càng không cần thiết và gây phản cảm trong dư luận.
Việc kiểm soát, giám sát chi phí đầu tư, xây dựng, duy tu, bảo trì di tích đã có các quy định chi tiết của Luật Di sản, Luật Xây dựng và các văn bản hướng dẫn thi hành. Khi phát hiện các dấu hiệu, hành vi vi phạm về quản lý chi phí đầu tư, xây dựng theo quy định, hoặc các hành vi vi phạm pháp luật khác về giao dịch tài chính, Nhà nước vẫn có thể can thiệp qua chức năng kiểm tra, giám sát của mình.
Tags: