Vài năm trở lại đây, đã thành thông lệ, cứ vào đầu năm, người dân lại ùn ùn kéo đến các chùa để đăng kí làm lễ "dâng sao giải hạn".
Tin nên đọc
Tắc đường vì dâng sao giải hạn ở chùa Phúc Khánh
"Dâng sao giải hạn” không có trong giáo lý nhà Phật
Dâng sao giải hạn - đừng làm xấu một phong tục đẹp
Hiểu đúng về dâng sao giải hạn và cách hóa giải đơn giản
Để được dâng sao ở chùa, người dân đôi khi phải đăng ký giải hạn từ trước Tết. Tuy nhiên, theo nhiều nhà nghiên cứu, trong giáo lý nhà phật lại không khuyến khích việc này, càng không có quan niệm về dâng sao giải hạn.
|
Người dân xếp hàng làm lễ dâng sao giải hạn tại chuàn Phúc Khánh, Hà Nội. |
Có nguồn gốc từ lão giáo?
Theo đó, tục dâng sao giải hạn nằm trong nghi lễ của Đạo giáo, mà người sáng lập là Lão Tử của Trung Quốc. Quan niệm này đã đi sâu vào tiềm thức của nhiều người, trong đó có người dân Việt Nam. Họ tin rằng, mỗi một năm có một vì sao chiếu mệnh.
Có 9 sao hay gọi đúng hơn là Cửu diệu tinh quân là chín vị thần trông coi chín thiên thể (ngôi sao) chuyển động trên bầu trời gồm có: La Hầu, Thổ Tú, Thủy Diệu, Thái Bạch, Thái Dương, Vân Hán, Kế Đô, Thái Âm, Mộc Đức.
Trong đó có sao tốt, có sao xấu. Năm nào sao xấu chiếu mệnh, con người sẽ gặp phải chuyện không may, ốm đau, bệnh tật... gọi là vận hạn nên làm lễ giải hạn. Trước đây chỉ có đình, đền thực hiện nghi thức này.
Cụ thể như sau: La Hầu (Kim, xấu): khẩu thiệt tinh, kỵ tháng giêng, tháng bảy. Chủ về ăn nói thị phi, hay liên quan đến công quyền, nhiều chuyện phiền muộn, bệnh tật về tai mắt, máu huyết.
Nam rất kỵ, nữ cũng bi ai chẳng kém. Kế Đô (Thổ, xấu): hung tinh, kỵ tháng ba và tháng chín nhất là nữ giới. Chủ về ám muội, thị phi, đau khổ, hao tài tốn của, họa vô đơn chí; trong gia đình có việc mờ ám, đi làm ăn xa lại có tài lộc mang về.
Thái Dương (Hỏa, tốt): Thái dương tinh (măt trời) tốt vào tháng sáu, tháng mười, nhưng không hợp nữ giới. Chủ về an khang thịnh vượng, nam giới gặp nhiều tin vui, tài lộc còn nữ giới lại thường gặp tai ách.
Thái Âm (Thủy, tốt): Chủ âm tinh (mặt trăng), tốt cho cả nam lẫn nữ vào tháng chín nhưng kỵ tháng mười. Nữ có bệnh tật, không nên sinh đẻ e có nguy hiểm. Chủ về danh lợi, hỉ sự. Mộc Đức (Mộc, tốt): Cát tinh cho cả nam và nữ, tốt vào tháng mười và tháng chạp.
Sao Mộc Đức chiếu mạng sẽ gặp nhiều may mắn trong công việc, có bạn mới, được thăng quan tiến chức, gặp quý nhân giúp đỡ, hôn nhân hòa hợp. Phụ nữ có hạn huyết quang. Nam giới đề phòng bệnh về mắt. Gia đạo có chút bất hòa nhưng nhân khẩu bình an không đáng ngại..
Vân Hán (Hỏa, xấu): Tai tinh, chủ về tật ách, xấu vào tháng hai và tháng tám. Nam gặp tai hình, phòng thương tật, bị kiện thưa bất lợi; nữ không tốt về thai sản. Thổ Tú (Thổ, trung bình): Ách Tinh, xấu tháng tư, tháng tám.
Chủ về tiểu nhân, xuất hành đi xa không lợi, có kẻ ném đá giấu tay sinh ra thưa kiện, gia đạo không yên, chăn nuôi thua lỗ. Người bị sao thổ tú chiếu mạng hay có nỗi buồn man mác, hay hoài nghi nhưng không bị tai họa gì lớn.
Thái Bạch (Kim, xấu): Triều dương tinh, xấu vào tháng một, tháng năm và kỵ màu trắng quanh năm. Chủ về mọi sự không như ý, đại kỵ với nữ, nam thì đỡ hơn một chút, cần giữ gìn trong công việc kinh doanh, có tiểu nhân quấy phá, hao tán tiền của, đề phòng quan sự.
Thủy Diệu (Thủy, tốt): Phước lộc tinh, tốt nhưng cũng kỵ tháng tư và tháng tám. Chủ về tài vận và phúc lộc, nam giới gặp phúc lợi, may mắn, đi xa có lợi, thêm đinh; Còn nữ thì bất lợi hơn chút, không nên đi sông biển, giữ gìn lời nói nếu không sẽ có tranh cãi, lời tiếng thị phi đàm tiếu.
Không chỉ ngày càng thịnh hành, việc dâng sao giải hạn thậm chí đang trở thành “mốt”, nhiều chùa đứng ra để tổ chức lễ dâng sao. Mỗi người đến đăng ký sẽ được nhà chùa phát cho một tờ giấy "Đăng ký cầu an + lễ sao".
Người dân sẽ điền đầy đủ thông tin như: tên tuổi, địa chỉ, năm sinh, sao hạn... Sau khi ghi đầy đủ thông tin, người dân sẽ nộp lại giấy cho nhà chùa để lập danh sách, đồng thời đóng lệ phí làm lễ.
TS Nguyễn Quốc Tuấn – Viện trưởng Viện Nghiên cứu Tôn giáo xác nhận: Việc cúng dâng sao giải hạn không phải nghi lễ của Phật giáo mà của tôn giáo khác là Đạo giáo được hình thành ở Trung Quốc.
“Đạo giáo hiện nay không còn tồn tại nữa, chỉ còn những mảng vỡ. Các nhà chùa, nhất là trong khoảng 15 năm gần đây, tôi xin nhấn mạnh chỉ có chùa ở miền Bắc, nhằm đáp ứng nhu cầu niềm tin của người dân đó là việc giải hạn trong năm những tác động của sao xấu.
Nhưng có thể nghi lễ này không phải của Phật giáo mà của Đạo giáo. Chúng ta cũng nên nhìn thấy ở đây hai khía cạnh. Khía cạnh thứ nhất, trong Phật giáo là không có. Nhưng khía cạnh thứ hai thì trong thực tế, người dân lại có nhu cầu.
Theo tôi, nghi lễ này làm ở trong chùa thì nhà chùa cố gắng thông qua cúng dâng sao giải hạn mà đưa giáo lý của Đức Phật vào người dân để mọi người hiểu: Không có sao nào chiếu mệnh nếu như hành vi của chúng ta xấu thì chúng ta sẽ gặp bất hạnh”, ông Tuấn cho hay
Trăm triệu có giải được “vận đen”?
Thượng tọa Thích Nhật Từ - Ủy viên Hội đồng Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam nhận định cúng sao phát xuất từ tập tục coi bói. Người ta thường coi năm nay bị sao xấu nào chiếu mạng, có thể bị tam tai, gặp những hạn vận xấu nên mới bày ra cúng sao giải hạn.
Thầy Nhật Từ khẳng định: “Đây là quan niệm hoàn toàn mê tín dị đoan, gieo rắc niềm tin không có cơ sở khoa học và nhân quả. Người tin sẽ rơi vào nỗi sợ hãi nghiêm trọng, tác động đến tâm lý, thái độ sống và thậm chí là sự sinh hoạt thường nhật của họ”.
“Xui hay hên, tốt hay xấu, hạnh phúc hay khổ đau, thành công hay thất bại đều là những điều diễn ra hàng ngày trong cuộc sống của con người”, thượng tọa nhấn mạnh.
Trong quan niệm nhà Phật, tất cả họa và phúc đều là do nhân quả mà thành. Bởi vậy, muốn biết quá khứ chúng ta đã gieo nhân gì thì cứ nhìn cái quả mà chúng ta đang có. Muốn biết tương lai chúng ta ra sao thì cứ nhìn cái nhân chúng ta đang gieo trồng trong hiện tại.
Gieo nhân nào thì gặt quả đó. Thành công hay thất bại không do ai ban phát mà do chính chúng ta tạo nên. Tất cả đều bắt nguồn từ thân, khẩu và ý.
Nhân duyên xấu do chúng ta tạo tác sẽ trổ ra quả xấu. Nhân duyên lành sẽ trổ quả tốt. Muốn cuộc đời hạnh phúc thì luôn tích cực thực hành chánh niệm để mỗi lời nói, mỗi suy nghĩ, mỗi việc làm... không gây những khổ đau, tủi hờn, bạo động cho mình, cho người mà chỉ mang đến những hiểu biết và thương yêu, nhờ đó, tâm mình an, tâm mình lạc.
Khi không hiểu luật nhân quả, con người sống trong sự sợ hãi mê tín mù mờ. Họ giải thích những hiện tượng thiên nhiên qua sự mê tín dị đoan.
Thí dụ khi hạn hán mất mùa, họ nghĩ là vì ông thần đất đai giận nên phải hối lộ ông ta bằng cách cúng kiến mới có được trời mưa. Mới đầu thì tế lễ bằng con gà không có hiệu quả, rồi đến con bò, đến khi sự cuồng tín lên cao có thể dẫn đến giết một em bé hay một trinh nữ để tế thần như dân tộc Incas đã từng làm.
Ngoài ra trong cuộc sống hàng ngày, đi đứng làm cái gì quan trọng thì phải coi ngày giờ tốt như vậy để tránh cái sợ hãi của những điều xấu xảy ra bất thần chớ không hẳn là tránh được những điều xấu.
Khi Đức Phật giác ngộ thì Ngài nhận ra luật nhân quả là nền tảng của thế giới tâm linh và vật chất. Mọi hiện tượng từ tâm lý đến vật chất đều có những sự liên quan vô hình rất chặt chẽ, đó là luật nhân quả.
Luật nhân quả là sợi dây vô hình nối liền hai biến cố xuyên qua thời gian và không gian. Cho nên khi hiểu luật nhân quả, ta có thể thay đổi biến cố đó theo chiều thuận cho ta, thay vì phải lo sợ hối lộ hoặc cầu khẩn một vị thần linh tưởng tượng nào đó phù hộ cho ta hoặc thỏa mãn điều ta mong ước.
Sự mê tín cuối cùng sẽ đưa đến sự thất vọng và mặc cảm tội lỗi (ta có tội nặng quá vị thần không giúp được).
“Ngày trước, khi chưa hiểu đúng Đức Phật là ai, cứ tưởng Đức Phật là vị thần linh có phép thuật muôn màu, mỗi tháng 2 lần, vào ngày rằm và mồng một, dù bận rộn đến đâu, em cũng phải gắng lên chùa lễ Phật. Dâng lên bàn thờ Phật chút "lễ bạc" mà "tâm thành" của em cầu xin Ngài đủ thứ: nào sức khỏe, nào bạc tiền, nào công dành, nào ái tình... Sau này, khi hiểu đúng Đức Phật là ai, Đức Phật không phải là đấng thần linh tối thượng có muôn ngàn phép thuật, khi nào thật rảnh rỗi, thảnh thơi, em mới lên chùa. Dâng lên bàn thờ Tam bảo một nén hương thơm, em cũng dâng lên ngài hương của Định, hương của Tâm, hương của Tuệ... do em tự chế tác. Bây giờ là tháng Giêng - mùa của cúng bái, cầu xin, mùa của dâng sao, giải hạn. Đến chùa nào cũng thấy cảnh khói hương nghi ngút, nườm nượp dòng người chen lấn, xô đẩy, xì xụp khấn vái. Nhìn mặt ai cũng thấy căng thẳng, lo âu, sợ hãi. Thật khó tìm được chút thanh tịnh chốn thiền môn. Cầu mong ai cũng có một vị Phật vững chãi trong Tâm để quay trở về "hải đảo tự thân", nương tựa vào chính mình, để không phải hớt hải, hoang mang, chen lấn, xô đẩy, giao tính mạng mình, tương lai của mình vào một thế giới huyền bí, xa xăm nào đó. - Nhà văn Hoàng Anh Sướng. |