![]() |
| Anh Thành đưa moi vào bờ. Ảnh NDCC |
Vùng đất nhiều nét văn hoá biển
Hải Hà là xã vùng biển Nghi Sơn (trước là huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hoá), hình thành lâu đời. Sau sáp nhập, Hải Hà thuộc phường Nghi Sơn (tỉnh Thanh Hoá). Do chưa thấy tài liệu lịch sử nào ghi chép lại, nên việc hình thành làng xã nơi đây vào thời điểm nào thì chưa ai biết. Chỉ biết rằng, người dân sinh sống ở đây đã lâu đời, bám biển, “ăn sóng nói gió”. Trước đây, khi các nhà máy chưa về, Hải Hà nên thơ, mơ mộng.
Hải Hà cũng có núi, có cánh đồng, có những con sông nhỏ, suối nhỏ chảy róc rách từ khe núi ra biển. Biển Hải Hà được ôm gọn trong hai dãy núi, cứ thế cong queo, lúc nhô, lúc thụt vào. Núi Hải Hà có sim, có các loại hoa rừng, nhất là hoa dẻ vàng, thơm lừng. Có lẽ, do sinh sống ở vùng đất “gió to, sóng lớn”, nên âm lượng trong mỗi câu nói của người dân cũng vang to hơn người dân nơi khác.
Đàn ông Hải Hà đi biển thì hầu như ai cũng có làn da bánh mật, rám nắng, khoẻ mạnh. Ở họ toát lên vẻ tự nhiên, hiền hậu, thật thà, có gì nói đó, không “vòng vo tam quốc”. Người dân nơi đây mến khách. Chính vì vậy, từng có thơ rằng: “Hải Hà sóng biển hiền hoà/ Con người chân chất thật thà xứ Thanh/ Hải Hà mảnh đất yên lành/ Thương người mến khách rõ rành xưa nay”.
![]() |
| Moi được phơi khô sạch sẽ trước khi đem bán sẽ được giá cao hơn bán tươi. Ảnh NDCC |
Về văn hoá, Hải Hà mang rõ đặc trưng nét văn hoá vùng biển, đó là tục thờ cúng Ông Cá, Bà Cá, Thần Biển… nhất là tục Lễ Tổ (Giỗ Tổ). Lễ Tổ của ngư dân Hải Hà thường được tổ chức trong vòng tháng giêng. Mỗi dòng họ sẽ chọn một ngày để Lễ Tổ. Lễ Tổ được chia là hai giai đoạn: Tế Yết và Tế Đại. Tế Yết là hình thức tế vào đêm hôm trước, như là mở đầu cho Lễ Tỗ, mời rước ông bà tổ tiên về.
Tế Đại sẽ được tổ chức vào sáng đến trưa hôm sau, con cháu trong họ tập trung đông đủ. Sau các nghi thức lễ, cả dòng họ sẽ có buổi cơm thân mật. Vào ngày này, con cháu dù ở xa cũng thường về dự. Có người tết không về, nhưng ngày Lễ Tổ nhất định phải về. Vì theo quan niệm ở đây, ngày này là ngày thể hiện tấm lòng của con cháu với tổ tiên, thể hiện tinh thần “uống nước nhớ nguồn” của người Việt Nam. Nếu năm nào, trong dòng họ có người mất, thì không Tế Đại, mà chỉ Tế Suối, tức làm lễ nhỏ.
Trong buổi Lễ Tổ, người đầu họ là người làm lễ chính. Xung quanh người lễ chính có những người khác mặc lễ phục vái theo. Có người đánh trống, có người dâng hương. Mỗi dòng họ nơi đây đều dành phần đất để xây nhà tổ. Hàng năm, con cháu đều công đức, góp quỹ vào. Đây là nét đẹp văn hoá thật hiếm nơi nào có được.
Về tục cúng Ông Cá, Bà Cá, Thần Biển… thì đây là tục có từ lâu đời. Cũng như Lễ Tổ, thời gian xuất hiện các tục lệ trên không ai nắm chắc được. Cách đây hơn 20 năm, tại vùng biển xã Hải Hà xuất hiện Cá Ông (cá đực) chết trôi dạt vào bờ. Ngư dân vùng này đã xây mộ cho Cá Ông. Sáng nào, cũng có người ra khói hương, nhất là các ngày rằm, mùng một, thì việc hương khói nhiều hơn. Có người nói, từ khi Cá Ông dạt vào, vùng biển Hải Hà ít động hơn, tức bình yên hơn. Bão gió có vào cũng tan đi rất nhanh.
Không giàu sang nhưng được làm đúng nghề ông cha truyền lại
Có thể chia Hải Hà thành ba khu vực: nơi làm muối (diêm dân), nơi đánh cá (ngư dân), nơi làm ruộng (nông dân). Hiện nay, do có các nhà máy về xây dựng nơi đây, nên có một bộ phận người dân làm công nhân. Cuộc sống người dân Hải Hà so với nhiều nơi khác cũng có thể nói là ổn định.
![]() |
| Anh Thành "thư giãn cùng thiên nhiên" ở khoang thuyền sau khi thu lưới moi lên |
Nghề làm muối của người dân Hải Hà hầu như đã mất hẳn khi phải nhượng lại đất cho các dự án công nghiệp. Nghề làm muối là nghề vất vả. Diêm dân phải đứng dưới cái nắng gắt để làm ra những hạt muối trắng mặn chát. Để thu được muối, người dân phải dậy thật sớm lên cánh đồng muối, lấy nước muối đã lọc chiều qua đổ ra sân xi măng sạch để phơi. Sau đó, lại phải vung đất phơi để chiều có đất khô lọc lấy nước để tiếp tục phơi lấy muối cho hôm khác.
Muối thường được thu hoạch sau 3 giờ chiều. Vì lúc này, muối mới khô nước, hạt to và đẹp. Nếu thu muối trước đó, muối sẽ còn nước, hạt nhỏ. Đôi bàn tay diêm dân nào cũng chai sần. Công việc tuy có vất vả, nhưng trước đây, nghề muối là một trong những nghề chính của người dân nơi đây.
Mỗi mùa moi (người dân Hải Hà gọi "moi" là "ruốc"), mỗi thuyền ra khơi có thể thu về 5-6 tấn moi tươi mỗi ngày. Thuyền được ngư dân dùng để đánh bắt là loại thuyền không lớn lắm. Như thuyền nhà anh Vũ Quang Tân là loại thuyền 10 thước, có chiều dài 11m, chiều rộng 3m. Thuyền nhà anh Thành, anh Tình Phèo cũng tương đương như vậy.
![]() |
| Moi tươi rói. Ảnh NDCC |
Trong mùa moi, thuyền nhà anh Tân đi 3 người, đánh 2 dả (lưới), mỗi dả dài 10m. Thuyền chạy máy 6, chạy được 7 hải lý trên giờ. Anh Tân bắt đầu đánh thuyền ra khơi vào lúc 5 giờ sáng, 8 giờ sáng thì thuyền vào bờ. Sau khi đưa moi tươi cho người nhà bán, hoặc đem phơi, anh Tân nghỉ ngơi chút rồi ra đánh moi, đến 1 giờ chiều, thuyền lại vào bờ. Có ngày, thuyền nhà anh thu về được 5-6 tấn moi tươi. Trừ tiền dầu, các chi phí khác, mỗi người cũng thu được tiền triệu.
Anh Tân đi biển từ khi còn nhỏ. Mặc dù được ăn học tử tế, nhưng anh không thích theo nghiệp chữ nghĩa, mà thích “lướt” trên sóng nước ra khơi. Nhà anh Tân ở sát biển, nên việc đi đánh bắt rất thuận lợi. Không phải năm nào vào mua moi, moi cũng được. Như năm nay, so với mọi năm, moi được mùa. Nhưng không phải ngày nào, mỗi thuyền cũng thu được hàng tấn moi. Cũng như việc bội thu moi cũng không thể kéo dài.
Tháng 7 dương lịch này chưa thể nói là mùa moi, nhưng ngư dân vẫn sử dụng lưới moi đi đánh bắt, chỉ có điều, việc đánh bắt lại phải di chuyển sang vùng biển thuộc địa phận tỉnh khác. Như thuyền nhà anh Tình Phèo, anh Thành hiện đang đánh bắt moi ở tận vùng biển thuộc địa phận tỉnh Nam Định. Theo như anh Tình Phèo chia sẻ, đi thuyền từ vùng biển Hải Hà (Thanh Hoá) đến vùng biển Nam Định để đánh bắt moi là 10 tiếng đồng hồ. Đây là khoảng thời gian dài và lượng dầu dùng nhiều.
Nghề đi biển của ngư dân Hải Hà phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên, đó là sóng, gió, nước. Những hôm bão tố, thuyền không thể ra khơi. Mấy năm trước đây, ngư dân còn lợi dụng vùng bến, là nơi đỗ thuyền, nước lặng, như một nút thắt của biển, để nuôi cá. Nhưng thời gian gần đây, việc nuôi cá biển hầu như không còn. Có một số hộ chuyển sang nuôi hàu, nhưng cũng chỉ là tự phát và giảm dần.
![]() |
| Những đứa trẻ vùng biển Hải Hà |
Có những chuyến ra khơi, ngư dân thu về tiền triệu mỗi ngày. Nhưng có hôm đi thì không được gì, thậm chí còn âm tiền dầu. Những khi mưa bão, cũng không thể đi đánh bắt được. Ngư dân Hải Hà chấp nhận cuộc sống như vậy, dù nghề biển không đem lại sự giàu có nhưng đủ sống, được làm nghề truyền thống mà ông cha để lại. Họ sống vui với nghề của mình. Lúc nghỉ ra khơi, họ lại tụ tập quây quần bên nhau.