Đền cổ nghìn năm
Đền Khai Long ở xã Tân Sơn- Đô Lương là công trình văn hóa tâm linh của nhân dân trong vùng. Đền được khởi dựng thời Lê Trung Hưng (1533 – 1788) để thờ thần Khai Long sứ quân Ngô Xương Xí, một nhân vật lịch sử có công với dân, với nước ở thế kỷ thứ X. Sau khi ông mất thường hiển linh, giúp dân độ thế nên được nhân dân lập đền thờ phụng bốn mùa hương khói.
Theo sử sách, Ngô Xương Xí sinh ra trong khoảng những năm 945- 950, ông là một trong 12 sứ quân thời Hậu Ngô vương. Ông cũng chính là cháu nội của Ngô Quyền, một bậc anh hùng tuấn kiệt được sử sách ghi chép là người: “khôi ngô, mắt sáng như chớp, dáng đi thong thả như hổ, có trí dũng, sức có thể nâng được vạc”.
Vào năm 965, Ngô Xương Xí lên nắm binh quyền, song lúc này khắp nơi các thế lực đua nhau nổi dậy. Trong thời gian sứ quân Ngô Xương Xí trấn giữ Bình Kiều (Thiệu Sơn, Thanh Hóa) ông thường xuyên qua lại vùng Châu Hoan (tức vùng Nghệ An) để tuyển mộ thêm binh lính. Đi đến đâu ông cũng giúp đỡ và bảo vệ cuộc sống cho nhân dân nên ông được nhân dân Châu Hoan tin yêu, mến phục.
Vùng Tân Sơn- Đô Lương ngày nay (cách căn cứ Bình Kiều khoảng 140 km về phía Nam) cũng chính là căn cứ luyện tập binh mã và tích trữ lương thực của sứ quân Ngô Xương Xí. Nhân dân nơi đây xem Ngô Xương Xí là một vị vua, vị sứ giả thường đi tuần du khắp nơi trên vùng đất Châu Hoan để bảo vệ cuộc sống cho mọi người dân nơi đây.
Chính vì vậy, nhân dân nơi đây nhớ ơn và lập đền thờ phụng. Điều này được thể hiện trong nội dung bài văn cúng tại đền: “Thánh thượng lược thặng đại phu tuần du sứ giả Khai Long sứ quân hiển ứng chiêu linh, lịch triều sắc tặng tôn chư mỹ tự Thượng, Thượng đặng tối linh đại vương”.
Kiến trúc của đền Khai Long có đầy đủ Thượng viện, Trung viện và Hạ viện. Thượng viện đặt bàn thờ bài vị, bình hương để người dân đến thắp hương cầu nguyện. Trung viện đặt lọng, gươm, đao, giáo, mác, có long bào, đồ đồng, gốm, sứ quý. Hạ viện là hai con ngựa đá trắng đứng chầu. Cổng Tam quan có binh lính tháp tùng rất uy phong, lộng lẫy…
Theo sách “Lịch sử Đảng bộ và nhân dân xã Tân Sơn- Đô Lương” và lời kể của những người cao tuổi trong làng cho biết: Trải qua các thời kỳ lịch sử Đền Khai Long đã có nhiều đóng góp cho công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước.
Năm 1957, đền Khai Long là địa điểm bán công phiếu kháng chiến của Chính Phủ Việt Nam. Từ năm 1946 – 1947, hưởng ứng phong trào bình dân học vụ, nhân dân xã Duy Tân (nay là xã Tân Sơn- Đô Lương) đã tổ chức nhiều lớp học tại đền Khai Long. Năm 1949, đền Khai Long là nơi diễn ra đại hội Đảng của xã Duy Tân và là nơi mở các lớp đào tạo cán bộ của huyện lấy tên là trường Lê Hồng Phong. Từ năm 1953 – 1958 chi bộ Đảng sự thật của xã Duy Tân tổ chức sinh hoạt tại đền.
Lễ hội lớn nhất của đền Khai Long diễn ra từ ngày 7 đến 9 tháng Giêng âm lịch hàng năm. Đền Khai Long trước đây diễn ra 5 dịp lễ chính trong năm: Lễ Nguyên Đán (mùng 1 Tết), Lễ Khai Hạ (mùng 7 Tháng Giêng), Lễ Thường Tân (ăn cơm mới, 20/5 âm lịch), Lễ Trạp Nghè (Hạ Nguyên, Rằm tháng Bảy), Lễ Thượng Niên.
Theo một người dân tại huyện Đô Lương, “Đền Khai Long rất được người dân tôn kính. Vào ngày rằm, ngày lễ không chỉ người trong làng mà người dân ở nhiều nơi cũng đến tham quan, cầu xin điều may mắn…”.
Năm 2014, Chính quyền địa phương, nhân dân và các nhà hảo tâm đã hằng tâm công đức phục hồi tôn tạo lại di tích. Tháng 12/2017, đền Khai Long, xã Tân Sơn được UBND tỉnh công nhận di tích lịch sử cấp tỉnh.
Đền Khai Long thờ Tấn Quốc Công Nguyễn Cảnh Hoan?
Người xưa có câu “có thờ có thiêng có kiêng có lành” chuyện thờ cúng kiêng cử luôn diễn ra hàng ngày xung quanh chúng ta. Nó đã trở thành một phần đức tin trong lòng của mỗi người. Tục thờ cúng tổ tiên vốn là một nét đẹp văn hóa của người Việt xưa và nay. Chính vì vậy, sự thờ cúng để đạt được cảnh giới “thiêng” và “lành” cần hiểu rõ nguồn gốc tổ tiên thờ ai. Tại đền Khai Long cũng vậy, nhiều sử tích, tranh cãi xoay quanh vấn đề: ngôi đền thờ ai, có thực sự là Ngô Xương Xí không…
Theo một sự tích được lưu truyền trong dân gian, đền Khai Long thờ Tấn Quốc Công Nguyễn Cảnh Hoan (1521-1576). Xưa kia, Đức Thánh Tấn Quốc Công Nguyễn Cảnh Hoan được vua Lê Trung Hưng (1533-1788) ban tám chữ vàng “ Trung Cần Nhân Nghĩa Bảo Quốc Hộ Dân”. Người đời sau từ 8 chữ vàng này mà dựng thành 2 câu đối để bên trong đền Khai Long.
Theo cụ Trần Đình Thành - Thủ từ đền Linh Kiếm kể rằng, đền Khai Long trước kia có 12 sắc phong, tuy nhiên, do xưa kia xảy ra nạn lũ lụt nên 12 sắc phong này bị trôi dạt, đền cũng bị sụp đổ nên người dân mang đến đền Linh Kiếm tại xã Thuận Sơn, huyện Đô Lương.
Nội dung một số Sắc Phong ghi: Sắc ban cho vị thần nguyên là Binh bộ Thượng thư Thái Phó Tấn phủ quân, tên thuỵ là Khiêm Cẩn (Tức là ông Nguyễn Cảnh Hoan, là tướng nhà Lê Trung Hưng trong lịch sử Việt Nam) đã có công hộ quốc giúp dân, rất linh ứng. Nghĩa là theo người dân thì chiếu theo nội dung Sắc Phong này thì đền Khai Long thờ Nguyễn Cảnh Hoan…?
Ngược dòng lịch sử, vào thời vua Lê Trung Hưng (1533-1788) cha con và anh em của Tấn Quốc Công Nguyễn Cảnh Hoan đã cùng với Nguyễn Kim sang Lào phù Lê Trang Tông lên làm vua và được Trịnh Kiểm (Trịnh thái sư - sau khi mất được vua Anh Tông tặng cho là Minh Khang Thái vương, đặt tên thuỵ là Trung Huân), Trịnh Tùng (Triết vương) cực kỳ trân trọng, có thể thấy điều này như sau.
Đến tháng Giêng năm 1553, Trịnh thái sư đưa quân về huyện Từ Liêm trừ bọn gian ác. Bấy giờ đang cơn binh lửa, nhân dân phiêu bạt, đường sá vắng tênh. Thái sư sai tướng chia giữ các sứ rồi chỉnh đốn quân ngũ kéo về Tây Đô, liệt kê chiến tích của các tướng dâng lên triều đình phê duyệt khen thưởng.
Khi đó, Tấn quận công đạt nhiều huân vọng, được gia phong Thái Bảo. Trịnh Thái Sư thấy Tấn quận công Nguyễn Cảnh Hoan có mưu trí dũng lược, đánh đâu được đấy, thật là một vị tướng tài, do đó đặc biệt đổi tên là “Trịnh Mô” (họ của chúa) làm thần tử thân thuộc. Lại cấp thêm cho binh dân và trao quyền trông coi những việc quân quốc trọng đại trong kinh ngoài trận.
Thủa sinh thời, Tấn Quốc Công Nguyễn Cảnh Hoan không chỉ có nhiều đóng góp công sức, trí tuệ cho triều đình, đất nước, muôn dân mà còn là trung thần với đất nước. Việc xây dựng đền thờ để nhớ đến công lao của ông là việc nên làm.
Mặt khác, Ngô Xương Xí khi còn là 1 trong 12 loạn sứ quân năm 966, căn cứ địa là Thanh Hóa. Trong khi đó, đền Khai Long xã Tân Sơn được đặt ở Nghệ An, không phải quê hương ông Ngô Xương Xí, quanh đó cũng không có con cháu họ Ngô và xây dựng sau khi ông mất hơn 600 năm sau thời Lê Trung Hưng (1533-1788).
Bên cạnh đó, thời Lê Trung Hưng là giai đoạn rực rỡ nhất của con cháu họ Nguyễn Cảnh, khi ông Nguyễn Cảnh Hoan vừa mới mất, và tại địa điểm Tân Sơn (là quê hương của mẹ ông Nguyễn Cảnh Hoan), cùng các vùng lân cận thì có rất nhiều con cháu họ Nguyễn Cảnh. Như vậy, việc lập đền thờ Tấn Quốc Công Nguyễn Cảnh Hoan ở xã Tân Sơn là rất hợp lý, vừa là quê hương của mẹ ông, đền được lập sau khi ông mất không lâu, vừa xung quanh và các vùng lân cận lại có nhiều con cháu họ Nguyễn Cảnh.
Ông Nguyễn Cảnh Hoan và con cháu Nguyễn Cảnh rất có công với đất nước, với nhà Lê - Trịnh, với nhân dân các vùng cho nên ở Nghệ An và nhiều tỉnh, có hơn 100 đền thờ lớn họ Nguyễn Cảnh trong đó có 42 đền thờ ông Nguyễn Cảnh Hoan. Sở dĩ ông được lập nhiều đền thờ đến vậy là do ông là nhân vật lịch sử, có công với dân với nước.
Sau hàng nghìn năm, dòng họ Nguyễn Cảnh vẫn lưu giữ câu đối cổ: “Cao Tằng Tổ Khải Dị Lai - Thập Bát Quận Công Tam Tể Tướng Đinh Lí Trần Lê Dị Hậu- Bách Dư Tiến Sĩ Thất Khôi Nguyên”. Tam tể tướng đó là ông Nguyễn Cảnh Chân: dựng Trần Ngỗi lên làm vua; ông Nguyễn Cảnh Dị: dựng Trần Trùng Quang lên làm vua và ông Nguyễn Cảnh Hoan trước khi mất chưa được làm Tể tướng nhưng sau khi mất tiếp tục phù trì, phù hộ đất nước nên được Trịnh Kiểm phong chức Tể tướng.
Như vậy, thời Trần, thời Lê Trung Hưng cho đến thời nhà Nguyễn, họ Nguyễn Cảnh có 3 Tể Tướng, 18 Quận Công, 76 Hầu Tước (quan cấp tỉnh), 19 Bá Tước, 5 Tử Tước, 3 Nam Tước. Cho nên được triều đình giai đoạn này rất trân trọng, tin dùng.
Với những chứng cứ và lập luận ở trên, có thể thấy rằng một người được lập đền thờ thì người đó phải là người có những chiến tích hiển hách, vẻ vang trong lịch sử, là người có công rất nhiều với đất nước, với muôn dân, và đặc biệt trung thành với vua, lấy đạo thờ vua lên trên hết.
Đặc biể, nơi được lập đền thờ cúng của người đó cũng thường là quê hương của họ để người dân nhớ đến cội nguồn, nhớ đến chiến tích của người đó, và phần nào đó thể hiện tự hào khi nhắc về tổ tiên - nơi đã sinh ra anh hùng dân tộc. Do đó, nhiều cơ sở có thể nói nhận định: Đền Khai Long - Tân Sơn thờ Tấn Quốc Công Nguyễn Cảnh Hoan.
Tags: