Nhiều người mua bán xe chỉ xác lập giấy viết tay mà không qua công chứng là trái quy định pháp luật. Nếu xe đã nhiều đời chủ thì có thể đến cơ quan quản lý hồ sơ đăng ký xe đó, làm thủ tục thu hồi và đăng ký sang tên xe tại nơi cư trú.
 |
Mua bán xe bằng giấy viết tay cẩn thận "lợi bất cập hại" |
Bị hớ khi mua bán xe bằng giấy viết tay
Trường hợp anh Lê Minh Q. (Hà Nội) có mua một chiếc xe máy của người quen làm nghề kinh doanh xe cũ ở phố Chùa Hà (Hà Nội), hai bên chỉ thực hiện hợp đồng viết tay và bàn giao xe.
Sau một thời gian trải nghiệm, anh Q. muốn bán chiếc xe nêu trên cho người khác. Tuy nhiên, khi hai bên làm các thủ tục cần thiết thì người mua yêu cầu làm hợp đồng có công chứng để tiện sau sang tên đổi chủ. Nhưng do trước kia, anh Q. mua xe bằng giấy viết tay, lại chưa làm các thủ tục sang tên nên được coi là không chính chủ, do đó, không thể ký vào hợp đồng mua bán. Anh Q. có hỏi người bạn làm nghề kinh doanh xe cũ trên thì được biết, anh này cũng mua lại xe rồi kinh doanh, không biết chủ đầu tiên của chiếc xe này ở đâu.
Căn cứ Điều 119, Bộ luật dân sự 2015, quy định về hình thức giao dịch dân sự thì việc mua xe chỉ cần thỏa thuận mua bán và bàn giao xe cho nhau thì đã coi là giao dịch thành công. Tuy nhiên, hiện nay, việc mua bán xe là loại giao dịch bắt buộc phải có hợp đồng bằng văn bản có công chứng, chứng thực.
Điều 8 Thông tư số 58/2020/TT-BCA quy định Giấy tờ chuyển quyền sở hữu xe, gồm một trong các giấy tờ sau đây:
a) Hóa đơn, chứng từ tài chính (biên lai, phiếu thu) hoặc giấy tờ mua bán, cho, tặng xe (quyết định, hợp đồng, văn bản thừa kế) theo quy định của pháp luật;
b) Giấy bán, cho, tặng xe của cá nhân có xác nhận công chứng hoặc chứng thực hoặc xác nhận của cơ quan, tổ chức, đơn vị đang công tác đối với lực lượng vũ trang và người nước ngoài làm việc trong cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự, cơ quan đại diện của tổ chức quốc tế mà đăng ký xe theo địa chỉ của cơ quan, tổ chức, đơn vị công tác;
c) Đối với xe công an thanh lý: Quyết định thanh lý xe của cấp có thẩm quyền và hóa đơn bán tài sản công hoặc hóa đơn bán tài sản nhà nước;
d) Đối với xe quân đội thanh lý: Giấy chứng nhận đăng ký xe, công văn xác nhận xe đã được loại khỏi trang bị quân sự của Cục Xe - máy, Bộ Quốc phòng và hóa đơn bán tài sản công hoặc hóa đơn bán tài sản nhà nước.
Do vậy, nếu mua bán xe bằng hợp đồng viết tay như trường hợp của anh Q. sẽ bị vô hiệu, coi như không phải là chủ sở hữu hợp pháp của chiếc xe, do vi phạm về mặt hình thức của hợp đồng theo quy định của Bộ luật dân sự năm 2015.
Như vậy, ở đây, trường hợp này anh Q có quyền yêu cầu bên bán xe trả tiền lại, nếu không chịu trả lại tiền bạn có quyền khởi kiện ra tòa yêu cầu tòa án giải quyết.
Mua xe không chính chủ vẫn có thể làm đăng ký sang tên
Hiện nay, có nhiều trường hợp sử dụng xe không chính chủ do mua xe máy cũ từ các cửa hàng bán xe cũ hoặc từ tiệm cầm đồ tương tự như hoàn cảnh của anh Q. Đối với trường hợp chiếc xe cũ đã mua qua nhiều đời chủ mà không liên lạc với chủ cũ thì quy định pháp luật vẫn cho phép người sử dụng xe thực hiện thủ tục sang tên xe để được cấp biển số định danh.
Căn cứ quy định tại Điều 31, Thông tư 24/2023/TT-BCA, thì cá nhân sử dụng xe không chính chủ đã qua nhiều đời chủ sử dụng, đến cơ quan đang quản lý hồ sơ đăng ký xe đó để làm thủ tục thu hồi và đăng ký thủ tục sang tên xe tại cơ quan đăng ký xe nơi cư trú.
Thay chế tài, tăng mức xử phạt
Theo Nghị định 168/2024/NĐ-CP được áp dụng từ 1/1/2025, mức phạt cao nhất cho cá nhân đối với lỗi xe không chính chủ có thể lên tới 2 triệu đồng (xe máy) và 6 triệu đồng (ô tô)...
Trước đây, tại điểm a, khoản 4, và điểm l, khoản 7, Điều 30 Nghị định 100/2019/NĐ-CP (bị bãi bỏ bởi điểm l khoản 8 Điều 52 Nghị định 168/2024/NĐ-CP) thì lỗi xe không chính chủ có nghĩa là không làm thủ tục đăng ký sang tên xe (để chuyển tên chủ xe trong Giấy đăng ký xe sang tên của mình) theo quy định khi mua, được cho, được tặng, được phân bổ, được điều chuyển, được thừa kế tài sản là xe mô tô, xe gắn máy, các loại xe tương tự xe mô tô và xe ô tô, máy kéo, xe máy chuyên dùng, các loại xe tương tự xe ô tô.
Hiện hành, tại điểm a, khoản 3 và điểm h, khoản 7, Điều 32 Nghị định 168/2024/NĐ-CP thì lỗi xe không chính chủ được quy định là không làm thủ tục cấp chứng nhận đăng ký xe, biển số xe trong trường hợp thay đổi chủ xe theo quy định.
Theo khoản 10, Điều 47 Nghị định 168/2024/NĐ-CP thì việc xác minh để phát hiện hành vi vi phạm quy định tại điểm a, khoản 3, điểm h, khoản 7, Điều 32, Nghị định 168/2024/NĐ-CP được thực hiện thông qua công tác điều tra, giải quyết vụ tai nạn giao thông; qua công tác đăng ký xe; qua công tác xử lý vụ việc vi phạm hành chính tại trụ sở đơn vị.
Như vậy, người dân chỉ bị xử phạt hành chính về lỗi xe không chính chủ thông qua công tác điều tra, giải quyết vụ tai nạn giao thông; qua công tác đăng ký xe; qua công tác xử lý vụ việc vi phạm hành chính tại trụ sở đơn vị.
Tuy nhiên, việc mượn xe người thân, bạn bè,… để chạy trên đường sẽ không bị phạt lỗi xe không chính chủ.