Rác thải, môi trường ô nhiễm bủa vây làng nghề
Thôn Minh Khai (tên khác là làng Khoai, Thị trấn Như Quỳnh, huyện Văn Lâm, Hưng Yên) từng là một làng quê thuần nông, tới khi nghề tái chế rác thải nhựa được đưa về đã nhanh chóng thay đổi diện mạo, trở thành “thủ phủ tái chế rác” bởi đây là điểm đến lớn nhất của rác thải nhựa, nilon phế liệu trên cả nước.
Tuy nhiên, hoạt động sản xuất, tái chế nhựa đã gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới môi trường và cuộc sống của người dân xung quanh.
Đã hơn 2 thập kỷ, làng nghề tái chế nhựa Minh Khai luôn được coi là điểm nóng gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, và được nhắc tên tại Quyết định số 64/2003/QĐ-TTg ngày 22/4/2003 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt kế hoạch xử lý triệt để các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Việc xả thải không qua xử lý đã khiến hệ thống thuỷ lợi Bắc Hưng Hải (chủ yếu phục vụ hoạt động sản xuất nông nghiệp, công nghiệp, dân sinh của 4 tỉnh, thành là Hà Nội, Bắc Ninh, Hưng Yên và Hải Dương) bị ô nhiễm nghiêm trọng, ảnh hưởng tới không chỉ tỉnh Hưng Yên mà cả các địa phương khác khiến người dân và cử tri bị ảnh hưởng nhiều lần kiến nghị cấp có thẩm quyền sớm có biện pháp ngăn chặn, xử lý dứt điểm.
Theo Báo cáo số 719/BC-STNMT ngày 25/12/2024, thôn Minh Khai hiện nay còn 192 cơ sở, hộ sản xuất, kinh doanh, tái chế nhựa phế liệu nhưng chỉ có 27 cơ sở có đăng ký kinh doanh và mã số thuế. Hoạt động sản xuất, tái chế nhựa hàng ngày đã gây ra những ảnh hưởng nghiêm trọng tới môi trường, lượng chất thải rắn tồn đọng ước tính khối lượng khoảng 150.000 tấn, chủ yếu là rác thải nhựa được tập kết ven làng và khu vực bãi rác cạnh nghĩa trang của thôn.
![]() |
Các thửa đất nông nghiệp liệu có còn canh tác được sau khi bị biến thành bãi tập kết rác thải ô nhiễm? |
Nước dùng cho tái chế phế liệu nhựa được các hộ tự ý khai thác (không đăng ký và không được cấp phép) từ các giếng khoan với lưu lượng khai thác từ 6.000-8.000 m3/ngày đêm. Nước thải phát sinh không được thu gom, xử lý mà thải trực tiếp ra môi trường.
Khí và bụi thải phát sinh từ công đoạn gia công sản xuất, bốc dỡ, tập kết phế liệu đều không được thu gom xử lý. Vì vậy không khí trong làng nghề luôn có mùi khét do nhựa cháy trong quá trình tái chế nhựa và mùi xú uế từ phế liệu bốc lên. Thường xuyên có một lượng lớn các phương tiện tải trọng lớn ra vào bốc dỡ hàng hóa, phế liệu nhựa dẫn đến giao thông thường xuyên bị ùn tắc.
![]() |
Nhựa thành phẩm và rác thải tràn lan trên đường giao thông, sát cạnh hệ thống kênh thủy lợi. |
Theo các thông tin phóng viên tìm hiểu, thu thập được, tại làng nghề Minh Khai đang sử dụng điện với hình thức 1 cơ sở đứng tên ký hợp đồng với đơn vị điện lực để lắp đặt trạm biến áp, sau đó cung cấp điện cho nhiều cơ sở cùng sử dụng sản xuất. Việc sử dụng điện này không an toàn, tiềm ẩn nhiều nguy cơ và khó khăn trong việc quản lý sử dụng điện.
Bên cạnh đó, các cơ sở tái chế nhựa hầu hết không trang bị các thiết bị phòng cháy chữa cháy; không được cấp chứng nhận đủ điều kiện phòng cháy, chữa cháy. Trong hoạt động sản xuất, các cơ sở tập kết nguyên vật liệu (phế liệu nhựa, chất thải rắn...) trên hành lang đường giao thông, dưới hành lang đường điện, một số cơ sở còn thực hiện việc đốt lưới lọc, các loại nhựa thải ngay dưới đường điện.
Cần xử lý dứt điểm và xem xét trách nhiệm các cá nhân, tổ chức
GS-TS Nhà giáo nhân dân Đặng Thị Kim Chi phân tích, Luật Bảo vệ môi trường (BVMT) năm 2020 và Nghị định 08/2022/NĐ-CP hướng dẫn thi hành (Điều 33, 34, 35) đã đề cập và hướng dẫn khá đầy đủ về BVMT tại các làng nghề.
![]() |
GS-TS NGND Đặng Thị Kim Chi cho biết trách nhiệm của các cá nhân, tổ chức trong việc xử lý ô nhiễm, bảo vệ môi trường tại các làng nghề được qui định rõ ràng trong Luật BVMT năm 2020. |
Theo Điều 56 Luật BVMT năm 2020, làng nghề phải có phương án bảo vệ môi trường, có tổ chức tự quản về bảo vệ môi trường và hạ tầng bảo vệ môi trường. Hạ tầng bảo vệ môi trường của làng nghề bao gồm: Có hệ thống thu gom nước thải, nước mưa bảo đảm nhu cầu tiêu thoát nước của làng nghề; Hệ thống thu gom, thoát nước và xử lý nước thải tập trung (nếu có) bảo đảm nước thải sau xử lý đáp ứng yêu cầu về bảo vệ môi trường; Có điểm tập kết chất thải rắn đáp ứng yêu cầu kỹ thuật về bảo vệ môi trường; khu xử lý chất thải rắn (nếu có) bảo đảm quy định về quản lý chất thải rắn hoặc có phương án vận chuyển chất thải rắn đến khu xử lý chất thải rắn nằm ngoài địa bàn.
Cùng với đó, cơ sở, hộ gia đình sản xuất trong làng nghề phải xây dựng và thực hiện biện pháp bảo vệ môi trường theo quy định của pháp luật; thực hiện biện pháp giảm thiểu tiếng ồn, độ rung, ánh sáng, bụi, bức xạ nhiệt, khí thải, nước thải và xử lý ô nhiễm tại chỗ; thu gom, phân loại, lưu giữ, xử lý chất thải rắn theo quy định của pháp luật.
Cũng tại Điều 56 Luật BVMT 2020, trách nhiệm của UBND các cấp đối với việc bảo vệ môi trường tại các làng nghề cũng đã được qui định rõ. Theo đó, UBND xã có trách nhiệm: Lập, triển khai thực hiện phương án bảo vệ môi trường cho làng nghề trên địa bàn; Hướng dẫn hoạt động của tổ chức tự quản về bảo vệ môi trường làng nghề.
UBND cấp huyện có trách nhiệm tổng hợp nhu cầu ngân sách cho hoạt động bảo vệ môi trường làng nghề; Chỉ đạo, triển khai thực hiện các mô hình bảo vệ môi trường làng nghề; đầu tư xây dựng và tổ chức vận hành các mô hình thu gom, xử lý chất thải rắn, hệ thống xử lý nước thải tại chỗ đáp ứng yêu cầu về bảo vệ môi trường do Nhà nước đầu tư từ nguồn kinh phí đầu tư xây dựng, nguồn chi sự nghiệp môi trường và khoản đóng góp của tổ chức, cá nhân theo quy định của pháp luật.
UBND cấp tỉnh có trách nhiệm quy hoạch, xây dựng, cải tạo và phát triển làng nghề, cụm công nghiệp làng nghề gắn với bảo vệ môi trường; Bố trí ngân sách cho hoạt động bảo vệ môi trường làng nghề; Chỉ đạo, tổ chức đánh giá mức độ ô nhiễm và xử lý ô nhiễm môi trường làng nghề trên địa bàn; Chỉ đạo xây dựng hệ thống thu gom, xử lý nước thải; khu tập kết, xử lý chất thải rắn thông thường, chất thải nguy hại cho làng nghề; Có kế hoạch di dời cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, gây ô nhiễm môi trường kéo dài ra khỏi khu dân cư, làng nghề.
Trong trường hợp cụ thể tại làng Khoai và Cụm công nghiệp Minh Khai, trách nhiệm của các cá nhân, tập thể có thể xác định căn cứ theo các điều của Luật BVMT đối với các làng nghề cơ sở, hộ gia đình sản xuất, UBND cấp xã, huyện, tỉnh và cơ quan quản lý môi trường các cấp khi để xảy ra vấn đề ô nhiễm môi trường trong thời gian dài kể trên.
![]() |
Khói thải nghi ngút gây ảnh hưởng tới môi trường không khí trong khu vực. |
Một chuyên gia hoạt động trong lĩnh vực môi trường cũng nêu ý kiến, Chính phủ vô cùng quan tâm đến bảo vệ môi trường trong dòng chảy của lịch sử, phát triển kinh tế, xã hội. Ngày 27/12/1993, Quốc hội đã thông qua Luật BVMT, tại Điều 16 quy định rõ: Tổ chức, cá nhân trong sản xuất, kinh doanh và các hoạt động khác phải thực hiện các biện pháp vệ sinh môi trường, phải có thiết bị kỹ thuật để xử lý chất thải, bảo đảm tiêu chuẩn môi trường, phòng, chống suy thoái môi trường, ô nhiễm môi trường, sự cố môi trường.
Tại Chương 4 quy định Quản lý nhà nước về BVMT, trong đó quy định trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước từ trung ương tới địa phương. Luật BVMT lần lượt được ban hanh thay thế vào các năm 2005, 2014 và 2020, theo thời gian các quy định càng trở lên rõ ràng, đầy đủ, quy định trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân có các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ ngày càng chi tiết, đồng thời chế tài xử phạt cũng hết sức rõ ràng, đầy đủ đảm bảo tính răn đe, không chỉ xử phạt vi phạm hành chính mà các hành vi xả thải, đổ thải gây ô nhiễm môi trường trực tiếp đến ngưỡng nhất định còn bị quy trách nhiệm hình sự, có thể trực tiếp khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can thực hiện hành vi vi phạm gây tổn hại lên môi trường.
Pháp luật đã được nhà nước ban hành, trách nhiệm của tổ chức cá nhân đã rõ, chế tài xử phạt vi phạm hành chính và hình sự đã có, cơ quan nhà nước được giao thực hiện chức năng nhiệm vụ bảo vệ môi trường đã rõ. Vậy, câu hỏi đặt ra pháp luật về bảo vệ môi trường có được thực thi ở các khu vực điểm nóng ô nhiễm môi trường hay không?
Khoản 6 Điều 4 của Luật BVMT năm 2020 quy định: Cơ quan, tổ chức, cộng đồng dân cư, hộ gia đình và cá nhân được hưởng lợi từ môi trường có nghĩa vụ đóng góp tài chính cho hoạt động bảo vệ môi trường; gây ô nhiễm, sự cố và suy thoái môi trường phải chi trả, bồi thường thiệt hại, khắc phục, xử lý và chịu trách nhiệm khác theo quy định của pháp luật. Vậy ai sẽ là người bỏ tiền ra để xử lý ô nhiễm tại các khu vực điểm nóng môi trường này, tiền lấy từ ngân sách do người dân đóng góp để xây dựng đất nước, trả lương cho các công chức môi trường bảo vệ cuộc sống cho họ?
Ngoài ra, nếu như các biện pháp quản lý và giám sát chất lượng môi trường của khu vực không được tuân thủ, Cụm công nghiệp hoạt động không bảo đảm yêu cầu về kỹ thuật hạ tầng và không bảo đảm yêu cầu về quy hoạch, để chất lượng môi trường xấu vượt quá tiêu chuẩn cho phép nhiều lần thì chắc chắn sẽ gây ra tác động xấu đối với việc thu hút vốn đầu tư tại đây.
(Còn nữa)