Bà Chuôm hy vọng tới đây, TAND tỉnh Phú Thọ đưa vụ án ra xét xử sẽ có những phán quyết khách quan, toàn diện, công bằng.
Báo PLVN đã có loạt bài phản ánh trường hợp cụ bà Phạm Thị Chuôm được chia đất từ năm 1960 (tại khu 8, thị trấn Hạ Hòa, huyện Hạ Hòa, tỉnh Phú Thọ), hai vợ chồng bà và 7 người con cùng sinh sống trên diện tích đất này.
Năm 2013, bà Chuôm được cấp sổ đỏ, nhưng bất ngờ vào cuối năm 2014, bà bị người hàng xóm “đuổi ra đường” vì được cho là đứa cháu nội đã bán nhà đất cho mình. Bà tố cáo trong sự việc này có sự tiếp tay của chính quyền địa phương, nên gia cảnh bà mới đến nông nỗi.
|
| Bà Chuôm: “Tôi là người không biết chữ, nhà và đất tôi chưa hề bán, tặng cho ai”. |
Án sơ thẩm bị kháng nghị
Do tuổi cao sức yếu, bà Chuôm buộc phải ủy quyền cho người khác khởi kiện ra tòa. Tuy nhiên, Bản án dân sự sơ thẩm số 06/2016/DS-ST ngày 29/4/2016 của TAND huyện Hạ Hòa lại không chấp nhận yêu cầu của bà Chuôm yêu cầu anh Phạm Văn Thọ, chị Đinh Thị Chinh trả lại diện tích đất 152,5m2; 01 ngôi nhà cấp 4, 52m2; 01 trái vẩy, 1 bếp, 1 bể nước, 1 chuồng lợn và công trình vệ sinh, diện tích 100,5m2 trên thửa đất số 33, tờ bản đồ số 22 tại khu 8 thị trấn Hạ Hòa, huyện Hạ Hòa; giá trị hơn 1 tỷ 480 triệu đồng…
Ngày 26/5/2016, VKSND tỉnh Phú Thọ đã có Quyết định số 200/QĐ-KNPT kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm do cấp sơ thẩm có những vi phạm về xác định mối quan hệ tranh chấp, tư cách người tham gia tố tụng và thu thập chứng cứ, như: Trong đơn khởi kiện ngày 21/9/2015, bà Chuôm đề nghị tòa án buộc anh Thọ, chị Chinh trả lại quyền sử dụng đất cho gia đình bà.
Tại bản tự khai và biên bản hòa giải ngày 17/11/2015, ông Nguyễn Xuân Việt (người đại diện ủy quyền cho bà Chuôm) đề nghị tòa án hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất (QSDĐ) giữa bà Chuôm cho anh Hoàng Trọng Thắng (cháu nội bà Chuôm - PV) và vợ là chị Hà do bị lừa dối;
Hủy hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ giữa anh Thắng, chị Hà cho anh Thọ, chị Chinh và hủy Giấy chứng nhận QSDĐ mang tên anh Thọ, chị Chinh để trả lại quyền sử dụng đất cho bà.
Như vậy, trong vụ án phát sinh hai mối quan hệ tranh chấp: Một là, tranh chấp hợp đồng cho tặng QSDĐ giữa bà Chuôm và anh Thắng, chị Hà. Trong tranh chấp này xác định anh Thắng, chị Hà là bị đơn.
Hai là, tranh chấp QSDĐ giữa bà Chuôm và anh Thọ, chị Chinh nhưng trong tranh chấp hợp đồng chuyển QSDĐ giữa bà Chuôm và anh Thắng, chị Hà, quá trình giải quyết cấp sơ thẩm chỉ xác định anh Thắng, chị Hà là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan mà không đưa 2 người là bị đơn trong vụ kiện.
Tòa án cấp sơ thẩm khẳng định việc chuyển QSDĐ này là hợp pháp, nhưng phần quyết định không áp dụng điều luật cũng như quyết định tính hợp pháp của hợp đồng.
Như vậy, cấp sơ thẩm còn giải quyết thiếu yêu cầu của đương sự. Kháng nghị cũng xác định, TAND huyện Hạ Hòa đã có những vi phạm trong việc thu thập chứng cứ, như:
Tại biên bản hòa giải tranh chấp QSDĐ giữa hộ bà Chuôm và anh Thắng ngày 28/9/2015 là bản phô tô, nhưng được chứng thực của UBND thị trấn Hạ Hòa ngày 18/9/2015, như vậy việc chứng thực được thực hiện trước khi tiến hành hòa giải 10 ngày. Do đó, biên bản này không hợp pháp…
Giấy chứng nhận cho tặng nhà và đất thổ cư ngày 20/8/2013 và đơn đề nghị chuyển QSDĐ và nhà cùng công trình phụ ngày 5/10/2013 giữa bà Chuôm và anh Thắng, chị Hà đều không phải bản chính mà là bản phô tô, các văn bản này cũng không có công chứng, chứng thực của cơ quan có thẩm quyền…
Việc thu thập chứng cứ như vậy chưa đúng với quy định tại khoản 1 Điều 83 BLTTDS. Về hình thức và nội dung giấy chứng nhận cho tặng nhà và đất thổ cư ngày 20/8/2013 và hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ giữa bà Chuôm và anh Thắng, chị Hà được UBND thị trấn Hạ Hòa chứng thực ngày 25/10/2013: đối với giấy chứng nhận cho tặng nhà và đất thổ cư ngày 20/8/2013 bản photocopy do ông Nguyễn Đức Ninh - Chủ tịch UBND thị trấn Hạ Hòa ký xác nhận.
Văn bản này ở mặt thứ 2 chỉ có chữ ký của các bên và dòng chữ: “Xác nhận của UBND thị trấn Hạ Hòa, thay mặt UBND - ông Ninh ký và đóng dấu” ngoài ra không có ngày, tháng, năm xác nhận, không thêm lời chứng thực nào khác.
Như vậy việc chứng thực này không tuân thủ theo quy định của Thông tư liên tịch số 04/2006/TTLT-BTP-BTNMT ngày 13/6/2006. TAND huyện Hạ Hòa đã nhận định từ giấy chứng nhận này và đơn đề nghị chuyển QSDĐ và nhà cùng công trình phụ ngày 5/10/2013, UBND thị trấn Hạ Hòa tiến hành làm thủ tục, hồ sơ chuyển QSDĐ cho anh Thắng, chị Hà là hợp pháp.
Xác định đấy là tài liệu quan trọng để khẳng định bà Chuôm có thể hiện ý chí của mình bằng việc ký vào văn bản này hay không, thì tài liệu này cần phải được giám định.
Trong các tài liệu Cơ quan CSĐT Công an huyện Hạ Hòa đưa đi giám định thì không có văn bản này. Như vậy, văn bản này chưa đủ cơ sở khẳng định thể hiện ý chí của bà Chuôm.
Không đủ cơ sở kết luận chữ ký “người viết giấy cho tặng”
Tại cơ quan Công an huyện Hạ Hòa, anh Thắng (người được tặng cho), ông Kiên (cán bộ địa chính thị trấn Hạ Hòa) người trực tiếp làm hồ sơ, ông Trình (Phó Chủ tịch UBND thị trấn Hạ Hòa) người chứng thực đều thừa nhận bà Chuôm không có mặt tại UBND thị trấn Hạ Hòa để làm thủ tục chuyển QSDĐ.
Theo đó, Cơ quan CSĐT Công an huyện Hạ Hòa đã kết luận và đề nghị: “…việc UBND thị trấn Hạ Hòa lập hồ sơ chuyển nhượng mảnh đất từ bà Chuôm cho anh Thắng, sau đó được UBND huyện Hạ Hòa cấp Giấy chứng nhận QSDĐ mang tên Hoàng Trọng Thắng là chưa thực hiện đúng theo quy định của Luật Đất đai…đề nghị UBND thị trấn Hạ Hòa có biện pháp xử lý đối với ông Trần Huy Trình và Nguyễn Trung Kiên theo đúng quy định”.
Trước những dấu hiệu sai phạm trên, VKSND tỉnh Phú Thọ kháng nghị đề nghị TAND tỉnh Phú Thọ xét xử phúc thẩm hủy Bản án dân sự sơ thẩm số 06/2016/DS-ST của TAND huyện Hạ Hòa, đồng thời giao cho tòa án cấp sơ thẩm xét xử lại.
Ngày 6/12/2016, Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Phú Thọ có Kết luận giám định số 22/KLGĐ gửi TAND tỉnh Phú Thọ sau khi nhận được Quyết định trưng cầu giám định số 21/2016/QĐ-TCGĐ ngày 29/9/2016 của TAND tỉnh Phú Thọ, yêu cầu giám định chữ ký trong vụ án dân sự “Tranh chấp quyền sử dụng đất” đối với chữ ký “Chuôm” trên “Giấy chứng nhận cho tặng nhà và đất thổ cư” (tài liệu cần giám định ký hiệu A) với chữ ký “Chuôm” trên “Đơn đề nghị;
Giấy ủy quyền” (tài liệu mẫu so sánh ký hiệu M1, M2) có phải do cùng một người ký ra hay không? Kết luận 22 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Phú Thọ, kết luận: Không đủ cơ sở kết luận chữ ký dạng chữ viết “Chuôm” dưới mục “Người viết giấy cho tặng” trên “Giấy chứng nhận cho tặng nhà và đất thổ cư”, ngày 20/8/2013 (tài liệu cần giám định ký hiệu A) với chữ ký dạng chữ viết “Chuôm” dưới mục “Người viết đơn;
Người ủy quyền” trên “Đơn đề nghị; Giấy ủy quyền”, ngày 5/10/2013 tài liệu mẫu so sánh (ký hiệu M1, M2) … Bà Chuôm cho hay hy vọng tới đây, TAND tỉnh Phú Thọ đưa vụ án ra xét xử sẽ có những phán quyết khách quan, toàn diện để khép vụ án tránh những khiếu kiện không đáng có đối với người đã gần đất xa trời như bà.