Những ngày giáp tết, chúng tôi tìm về xã Hưng Thi, huyện Lạc Thủy, tỉnh Hòa Bình để tìm hiểu về lễ khấn ngày tết của đồng bào dân tộc Mường.
Tin nên đọc
Điểm mặt những đặc sản "tiến vua" được săn lùng làm quà biếu Tết
Hà Thu không chạy sô ngày Tết, giành trọn thời gian bên gia đình
Cận Tết, Hoa hậu Hoàn vũ H'hen Niê mang yêu thương đến Long An
Cô giáo bật khóc khi nhận được món quà Tết đầu tiên sau gần 30 năm dạy học
Khấn ngày tết là một trong số những nét đẹp văn hóa truyền thống được đồng bào Mường nói chung và dân Mường ở Hưng Thi nói riêng gìn giữ và duy trì cho đến ngày nay.
Theo thống kê, người Mường ở xã Hưng Thi chiếm đến hơn 80% dân số của toàn xã. Nhờ tỉ lệ dân số đông đảo, người Mường ở Hưng Thi còn giữ được nhiều nét đẹp văn hóa mang đặc trưng của dân tộc Mường.
Theo anh Bùi Văn Niên (người làm nghề khấn ở Hưng Thi đã gần 10 năm), tục lệ khấn ngày tết của người Mường có từ thời Đẻ đất, đẻ nước. Tục này xuất hiện cùng với sự ra đời của Mo Mường (nhiều sách chép lại ghi là sử thi “Đẻ đất đẻ nước”).
Khi chúng tôi hỏi cụ thể về nguồn gốc của việc thờ phụng và khấn tổ tiên của người Mường, anh Niên cho hay: “Thuở đó, sau khi “đẻ” ra đất, nước và vạn vật thì các vị thần cũng “đẻ” ra con người. Từ lúc mới hình thành con người đã phải chịu quy luật sinh, lão, bệnh, tử.
Con người sau khi chết đi thì mỗi dịp Tết con cái của họ sẽ làm lễ khấn mời ông bà tổ tiên về ăn tết để tỏ lòng thành kính và ghi nhớ công ơn dưỡng dục. Từ đó, lễ khấn ngày tết trở thành một nét đẹp văn hóa được dân Mường gìn giữ và phát huy cho đến ngày nay…”.
Thời xưa tục lệ khấn ngày Tết thường được tiến hành từ đêm ba mươi (nếu tháng thiếu thì bắt đầu từ đêm hai mươi chín) tháng Chạp đến hết mùng hai Tết Nguyên đán với những lễ thức tỉ mỉ và phức tạp. Tuy nhiên, hiện nay, lễ tục này thường chỉ được tiến hành từ đêm ba mươi đến hết mùng một Tết nguyên đán và lễ thức cũng được cải biến đi theo chiều hướng giảm nhẹ.
Lễ khấn ngày Tết ở mỗi Mường tuy có đôi chút khác biệt trong việc mời các vị “tổ tiên” nhưng theo anh Niên, từ xưa đến nay các gia đình người Mường thường mời các vị sau: ôông thổ[1]; quan lang[2]; môộng[3]; đá cố, dạ cố; đá càm, dạ cảm; đá, dạ; bố, mệ[4].
Thông thường, lễ khấn ngày Tết được bày ở gian chính giữa trong nhà của người Mường. Các mâm khấn được sắp xếp từ cao xuống thấp, từ ngoài vào trong để thể hiện rõ chức vị cao thấp của đối tượng được thờ.
|
Mâm cơm cúng của người Mường ngày Tết. |
Trên thờ thần
Cao nhất là mâm thờ ôông thổ, vị thần cai quản vùng đất của làng Mường. Ông thổ xuất hiện trong mâm cúng người Mường với vai trò một vị thần (chứ không phải tổ tiên của con người). Vì thế, ông thổ không phải là đối tượng thờ cúng chính mà người Mường hướng đến.
Tuy nhiên, với vai trò là vị thần cai quản đất Mường, ôông thổ vẫn được mời đến với tư cách bề trên. Với vị thế của một vị thần, mâm thờ ôông thổ được đặt cao nhất và nằm ở phía bên ngoài của nơi thờ phụng.
Tiếp sau mâm ôông thổ là mâm cỗ thờ quan lang. Người Mường ngày xưa dùng một thuật ngữ “quan lang” để biểu thị hai khái niệm với hai nội hàm khác nhau. “Quan lang” hiểu theo nghĩa thứ nhất là chính là thành hoàng làng; theo nghĩa thứ hai, “quan lang” là thuật ngữ dùng để chỉ thế lực (người) cai quản đất Mường thời phong kiến (xã hội Mường xưa gọi là lang đạo).
Như vậy, cả hai lực lượng “quan lang” này đều có vai trò quan trọng trong việc cai quản đất Mường. Tuy nhiên, đối tượng thời phụng của người Mường trong dịp cúng lễ nói chung và trong lễ tết nói riêng là vị “quan lang” theo lớp nghĩa thứ nhất (thành hoàng làng).
Bởi lẽ “quan lang” hiểu theo nghĩa thứ nhất là người đã chết; còn “quan lang” hiểu theo nghĩa thứ hai là người vẫn còn sống. “Quan lang” hiểu theo nghĩa thứ nhất là những người chết vào giờ thiêng, có sứ mệnh bảo hộ cho dân làng. Vì vậy họ được dân làng thờ phụng trong mỗi dịp cúng lễ nói chung và trong lễ tết nói riêng.
Dưới thờ tổ tiên
Sau các mâm thờ ông thổ và quan lang, người Mường bày đến mâm ông vải. Như đã trình bày, ông vải mới là đối tượng thờ phụng chính mà người Mường hướng đến. Bởi lẽ ông vải mới là những người sinh ra và nuôi dưỡng con người. Theo tục lệ, người Mường chỉ thờ đến ông vải đời thứ năm (tính từ đời người còn đang sống).
Theo đó, gia đình người còn sống (được tính là đời thứ nhất) sẽ thờ bố mệ (đời thứ hai), đá dạ (đời thứ ba), đá càm, dạ càm (đời thứ tư), đá cố, dạ cố (đời thứ năm). Sở dĩ người Mường chỉ thờ đến đời thứ năm là vì trong quan niệm của họ, sau năm đời người chết sẽ hóa thành một kiếp khác (hoặc là đầu thai, hoặc là hóa thành một hình hài nào đó).
Nếu bố (hoặc mẹ) vợ của gia đình người thờ phụng đã chết thì họ sẽ bày một mâm thờ riêng. Mâm thờ này được được đặt ngay sát phía trong (bên dưới) mâm thờ quan lang để thể hiện sự kính trọng của dòng họ bên nội đối với họ bên ngoại. Nếu cả bố và mẹ vợ của gia đình người thờ phụng còn sống (hoặc người vợ trong gia đình đã chết) thì trong lễ khấn ngày tết sẽ không có mâm thờ mộng.
Sau mâm thờ mộng là mâm thờ những người chết bên họ hàng bên nội. Những mâm thờ này cũng được bày từ cao xuống thấp, từ ngoài vào trong, lần lượt từ mâm đá cố, dạ cố đến cuối cùng là mâm bố mệ.
Trong số những mâm được thờ ngày tết thì các mâm ông thổ và quan lang là những mâm được bày trí cố định (vì hai đối tượng thờ này không có sự thay đổi). Còn các mâm thờ ông vải thường có sự thay đổi để phù hợp với từng giai đoạn, từng thế hệ.
Thông thường, trong một gia đình có nhiều người con trai thì sau khi lấy vợ chỉ có một người con ở lại trực tiếp chăm sóc bố mẹ. Những người con trai khác sẽ phải ra ở riêng. Thời xưa, người con trai cả thường là người ở lại trong nhà để “đứng mũi chịu sào”. Người Mường có câu: “Em cả thay mặt chành, anh cả thay mặt bố mặt mẹ” cũng một phần chỉ ý đó.
|
Người Mường gói bánh chưng ăn Tết. (Ảnh: Minh Phượng/ danviet.vn) |
Theo luật tục của người Mường, chỉ những gia đình gốc mới phải bày đầy đủ bảy mâm khấn như trên. Ngoài ra, nếu bố (hoặc mẹ) vợ của người con trai này cũng đã chết thì trong lễ khấn phải bày thêm một mâm nữa gọi là mâm mộng kim (ngoại mới), còn mâm thờ bố mẹ của mẹ mình gọi là mâm môộng cổ (ngoại cũ).
Những gia đình nhánh (người con trai ra ở riêng) thì chỉ bày từ 2 - 4 mâm. Nếu bố mẹ của họ (gia đình nhánh) còn sống thì họ chỉ phải bày khấn hai mâm thờ bắt buộc là mâm thờ ôông thổ và mâm thờ quan lang.
Nếu bố (hoặc mẹ) của người con trai/ con gái đã chết thì họ bày thêm một mâm nữa để thờ bố (hoặc mẹ) của chồng/ vợ. Nếu cả hai bên đều có bố (hoặc mẹ) đã chết thì họ bày thành hai mâm thờ riêng (một mâm thờ bố mẹ của chồng, một mâm thờ bố mẹ của vợ).
Như vậy, những gia đình nhánh thường thờ bố mẹ mình và chỉ bày tối đa bốn mâm thờ.
Trong mỗi gia đình, sau khi người vợ chết thì gia đình đó sẽ không thờ bố mẹ của người đó nữa. Điều này xuất phát từ quan niệm của người Mường, họ thường soi chiếu cái nhìn của mình từ xã hội người sống. Theo đó, dân Mường cho rằng người vợ chính là sợ dây liên kết giữa hai họ nội - ngoại.
Vì vậy, khi người vợ còn sống thì bố mẹ vợ sẽ (được khấn mời) về ăn tết với gia đình nhà con rể. Còn khi người vợ đã chết thì bố mẹ vợ sẽ chẳng có lí do gì để về nữa. Lúc này gia đình người con rể dù có lòng khấn mời thì bố mẹ vợ của họ cũng không đến. Người Mường có câu “Con gái một thào hương ngắn” cũng là để chỉ ý đó.
Cách bày trí mâm thờ trong lễ khấn ngày tết vừa thể hiện đạo lí “uống nước nhớ nguồn”, vừa là truyền thống nhân văn sâu sắc của người Mường.
Có thể thấy, trong lễ khấn ngày tết của người Mường, các mâm khấn không phải được bày một cách ngẫu nhiên mà cách sắp xếp đó chứa đựng lối tư duy nguyên thủy của họ. Đằng sau cách bày trí và những đồ lễ đó đều ẩn chứa những mã văn hóa độc đáo, tạo nên nét đặc trưng riêng biệt của văn hóa dân tộc Mường.