![]() |
| Tục ăn trầu cau xuất hiện ở Việt Nam từ rất lâu. Ảnh interner |
Hiện nay, người ăn trầu cau ở nước ta ít hơn xưa, nhưng tục trầu cau vẫn là thứ khó mà mai một được, bởi nó vẫn được dùng nhiều trong các dịp lễ tết, cúng tổ tiên, cưới hỏi, ma chay...
Nó trở thành văn hoá, tâm linh của nước ta. Chúng ta thường bắt gặp những cụ già ăn trầu cau, nhưng xưa kia, người ít tuổi cũng ăn, có sách nói là để nhuộm răng đen.
Tục ăn trầu cau ở nước ta trải dài ở nhiều tỉnh thành, và ở nhiều dân tộc, như: Kinh, Thái, Mường, Ê đê, Tày, Nùng… Người Kinh coi “miếng trầu là đầu câu chuyện”, người Ê đê dùng trầu đãi khách.
Còn đối với người Tày, người Nùng, thì dùng trầu buộc chỉ cổ tay cho cô dâu, chú rể.
Như vậy, trầu cau có ý nghĩa hết sức quan trong trong đời sống của người dân.
Vừa thể hiện nét văn hoá, vừa thể hiện ý nghĩa sâu xa về tình người.
Theo Hữu Ngọc và Lady Borton trong sách Trầu cau, từ Việt Bắc, tục ăn trầu ảnh hưởng đến dọc dãy Trường Sơn, người Bru, người Chăm, người Khmú, người Chăm, người Khmer ở miền Nam đều có tục này.
Về thời điểm xuất hiện tục ăn trầu cau ở nước ta, có lẽ khó có nhà nghiên cứu nào đưa ra được chính xác.
Sách Trầu cau viết rằng, theo sách Lĩnh nam chích quái (Tuyển tập chuyện lạ về nước Nam, thế kỷ 15), thì câu chuyện Sự tích trầu cau xuất hiện dưới triều Hùng Vương thứ 3 (thiên niên kỷ thứ nhất trước công nguyên).
Như vậy, nếu tính ra, tục ăn trầu cau có thời gian trên đất nước ta cách nay khoảng 3 nghìn năm.
“Theo các thư tịch cổ của Trung Quốc, ngay từ thời Đông Hán (25-220 sau Công nguyên), Tam Quốc (220-280 sau Công nguyên), ở Việt Nam đã rất phổ biến việc trồng trầu, cau và tục ăn trầu.
Sử cũ Việt Nam cũng ghi lại rằng, ngay từ thời Âu Lạc (thế kỷ ba trước Công nguyên), nhà nào cũng có một vườn trầu, cau” – Sách Trầu cau
Nói về trầu cau trong cưới hỏi, cuốn sách trên cũng cho biết, vào thời Hùng Vương, nhà trai đã phải dâng lễ vật cưới cho nhà gái một mâm trầu.
Trong bộ Luật Hồng Đức dưới triều vua Lê Thánh Tông, đồ dẫn cưới tuỳ theo hoàn cảnh từng nhà mà tăng hoặc giảm số lượng, nhưng nhất thiết không được thiếu rượu và trầu cau.
Trong câu chuyện Sự tích trầu cau, hai anh em Tân, Lang giống nhau như đúc, ngôi ngô tuấn tú.
Người con gái họ Lưu lấy người anh là Tân làm chồng.
Vì hai anh em giống nhau, mà cô gái họ Lưu đã dang tay đón nhầm chồng là người em khi đi làm về trong chiều nhập nhoạng, đúng lúc đó người chồng về.
Và cơn ghen diễn ra. Người em bỏ đi, chết hoá thành tảng đá vôi, người anh đi tìm em trai, chết hoá thành tảng đá vôi bên cây cau.
Người vợ đi tìm chồng, chết hoá thành cây trầu bám vào cây cau.
Một thời gian sau, nơi có tảng đá vôi, cây cau, cây trầu, được một bô lão biết đến, cảm động trước tình cảm của ba người, nên đã cho xây ngôi miếu đề cao nghĩa vợ chồng và tình anh em.
Trong đoạn cuối Sự tích trầu cau có viết: “Lúc đó, nạn hạn hán khủng khiếp xảy ra ở nước Văn Lang.
Rau quả, hoa màu cháy rụi, chỉ có cây cau và cây trầu, như có phép màu vẫn sống. Vua Hùng đến tận nơi xem thực hư ra sao.
Rất ngạc nhiên, vua liền hái một quả cau và mấy lá trầu nhai thử. Vua cảm thấy vị rất dễ chịu.
Nhà vua càng ngạc nhiên khi nhìn thấy nước bọt rớt từ miệng vua xuống tảng đá vôi lại có sắc đỏ.
Tập quán mời trầu trong đám cưới như là một biểu tượng của sự đoàn tụ xum vầy đến tận lúc chết, ra đời từ cái thuở xa xưa ấy”.