Bí thư phường Hoàng Liệt (Hoàng Mai) Nguyễn Xuân Chinh bị cơ quan công an truy tố điều tra về hành vi nhận hội lộ số tiền “khủng”, nhưng người đưa hối lộ trong vụ án lại được miễn trách nhiệm hình sự. Vậy, trong trường hợp nào người đưa hối lộ có thể được miễn truy cứu trách nhiệm hình sự?
 |
| Người đưa hối lộ nếu chủ động khai báo trước cơ quan công an phát giác sẽ được miễn truy cứu trách nhiệm hình sự về tội danh trên. |
Bí thư phường dính chàm vì ép công dân đóng “quỹ”
Nhìn lại vụ việc, ngày 22/5, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an TP Hà Nội cho biết đã khởi tố bị can, tạm giam đối với ông Nguyễn Xuân Chinh (SN 1976, trú tại phường Vĩnh Tuy, quận Hai Bà Trưng, TP Hà Nội - Bí thư Đảng ủy phường Hoàng Liệt) về tội “Nhận hối lộ”.
Cùng bị khởi tố về tội danh trên còn có một số cán bộ phường Hoàng Liệt.
Theo tài liệu điều tra, ông Nguyễn Trung H. (SN 1978, trú tại Hà Nội) mở bãi trông giữ phương tiện khoảng 4.000m2 tại ô đất ĐX3 (phường Hoàng Liệt).
Mặc dù chưa được các cơ quan chức năng cấp phép khai thác kinh doanh nhưng bãi xe này vẫn hoạt động.
Khoảng giữa tháng 8/2024, theo chỉ đạo của ông Chinh, cán bộ phường Hoàng Liệt yêu cầu ông H. trong thời gian chờ cấp phép, thì phải đóng góp ủng hộ vào “quỹ” công đoàn phường số tiền là 50 triệu đồng/2 tháng, nếu không sẽ bị cưỡng chế.
Do lo sợ bị cưỡng chế, tháo dỡ toàn bộ bãi xe, từ tháng 8/2024 đến nay, ông H. nhờ ông Trần Quốc T. (SN 1977, trú tại phường Vĩnh Hưng, quận Hoàng Mai, TP Hà Nội) đã nộp số tiền hơn 300 triệu vào “quỹ” của phường.
Ngoài ra, mở rộng điều tra, từ năm 2020, ông Chinh đã chỉ đạo nhận của các đơn vị vi phạm trật tự xây dựng số tiền hơn 800 triệu đồng khác.
Hành vi đưa hối lộ khi nào thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự ?
Từ vụ án trên có thể thấy ông H. đã liên tiếp nhiều lần có hành vi nhờ người trung gian đưa hối lộ ông Chinh và các thuộc cấp với số tiền không nhỏ, và diễn ra trong thời gian dài.
Tuy nhiên, khi cơ quan công an khởi tố điều tra vụ án thì tại sao chỉ có ông Chinh và các thuộc cấp bị truy tố về hành vi “nhận hối lộ”, còn ông H. lại không bị truy tố điều tra về hành vi “đưa hối lộ”.
Vậy, tình huống đặt ra là trong trường hợp nào hành vi đưa hối lộ được miễn truy cứu trách nhiệm hình sự?
Tội đưa hối lộ có thể được hiểu là khi người nào đó có hành vi trực tiếp hay qua trung gian đã đưa hoặc sẽ đưa cho người có chức vụ, quyền hạn hoặc người khác hoặc tổ chức khác bất kỳ lợi ích nào để người có chức vụ, quyền hạn làm hoặc không làm một việc vì lợi ích hoặc theo yêu cầu của người đưa hối lộ.
Hành vi đưa hối lộ nếu đủ các điều kiện cấu thành tội phạm tại Điều 364 (BLHS 2015, sửa đổi 2017), thì sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội “Đưa hối hộ”.
Theo đó, về mặt khách quan, hành vi trực tiếp hoặc qua trung gian đã đưa hoặc sẽ đưa cho người có chức vụ, quyền hạn hoặc người khác hoặc tổ chức khác bất kỳ lợi ích nào để người có chức vụ, quyền hạn làm hoặc không làm một việc vì lợi ích hoặc theo yêu cầu của người đưa hối lộ.
Cụ thể, lợi ích ở đây có thể là Tiền, tài sản, lợi ích vật chất khác trị giá từ 2.000.000 đồng trở lên hoặc lợi ích phi vật chất.
Về mặt chủ quan, Người phạm tội đưa hối lộ luôn thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp.
Tức người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra.
Người phạm tội đưa hối lộ là người từ đủ 16 tuổi trở lên và có năng lực trách nhiệm hình sự.
Thực tiễn cho thấy việc giao nhận hối lộ thường chỉ có một số ít người biết, diễn ra ở những nơi kín đáo, nên tội phạm thường rất khó phát giác, xử lý theo quy định của pháp luật.
Chính vì thế, để thực hiện việc đấu tranh, phòng chống, xử lý tội phạm tham nhũng, cụ thể là hành vi đưa, nhận hối lộ, Bộ luật Hình sự 2015 đã có quy định bảo vệ người tố giác tội phạm, khuyến khích việc chủ động tố giác, phát hiện, đấu tranh tội phạm này.
Khoản 7, Điều 364, Bộ luật Hình sự 2015 quy định:
- Người bị ép buộc đưa hối lộ mà chủ động khai báo trước khi bị phát giác, thì được coi là không có tội và được trả lại toàn bộ của đã dùng để đưa hối lộ.
- Người đưa hối lộ tuy không bị ép buộc nhưng đã chủ động khai báo trước khi bị phát giác, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự và được trả lại một phần hoặc toàn bộ của đã dùng để đưa hối lộ.
Với điều luật này, người đưa hối lộ sẽ được chia làm 2 trường hợp:
1. Nếu người đưa hối lộ trong trạng thái bị người nhận hối lộ ép buộc, tức là bị đe dọa về tinh thần, thể chất, khiến cho người đưa hối lộ miễn cưỡng, bắt buộc phải đưa hối lộ. Trường hợp này người đưa hối lộ được xác định là không có tội và được trả lại toàn bộ tài sản đã dùng để đưa hối lộ.
2. Nếu người đưa hối lộ chủ động, không bị ép buộc để đưa hối lộ, về ý thức chủ quan đây là hành động có tính toán, chủ động tiếp cận, chủ động thực hiện hành vi tội phạm và mong muốn thực hiện hành vi đưa hối lộ.
Nên trường hợp này họ chỉ được miễn truy cứu trách nhiệm hình sự và chỉ được trả lại một phần hoặc toàn bộ tài sản dùng đưa hối lộ.
Quy định nêu trên đã bảo vệ triệt để người tố giác tội phạm, khuyến khích mọi người dân tố giác hành vi tiêu cực, tham nhũng, nhận hối lộ, góp phần vào việc đấu tranh, phát hiện, xử lý các vụ việc tham nhũng, nhận hối lộ.