Ngôi làng như một thế giới khác biệt, thế nên nhiều năm trở về trước, để đến được vùng đất này là vô cùng gian nan.
Dưới những cánh rừng thâm u của dãy Trường Sơn, từ xa xưa đồng bào Ba Na ở làng Đồng (xã Phú mỡ, huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên) đã biết sử dụng mủ của loài cây có độc chất, cùng những phương thức bào chế bítruyền tạo nên loại vũ khí sátthương vô cùng lợi hại. Loài cây này và vũ khí được tạo ra từ nó được coi như “bùa hộ mệnh”, bảo vệ buôn làng khỏi nanh vuốt của thú dữ và những đợt càn quét của quân thù.
|
Anh La Chí Tâm, bí thư chi bộ làng Đồng. |
Cây thần độc giữa rừng thiêng
Làng Đồng nằm cheo leo, vắt vẻo trên đỉnh núi. Từ xa trông lại, sẽ thấy ngôi làng như một chấm nhỏ giữa bao la, trùng điệp rừng xanh núi thẳm, nơi giáp ranh 3 tỉnh Phú Yên, Bình Định, Gia Lai. Ngôi làng như một thế giới khác biệt, thế nên nhiều năm trở về trước, để đến được vùng đất này là vô cùng gian nan.
Chúng tôi đã chọn con đường ngắn nhất, xuất phát từ quốc lộ 19C tại xã Xuân Lãnh (huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên), băng qua dãy núi La Huyên hùng vĩ. Con đường đất trơ sỏi đá đi xuyên núi, càng ngắn dốc càng hiểm trở, nhiều đoạn bị sạt lở khiến lối đi càng hẹp, một bên là vách núi một bên là vực sâu.
Núi chồng lên núi, dốc gối đầu lên dốc mà lắm lúc ngó lên chỉ thấy sương mờ hun hút. Đường sá xa xôi cách trở, cuộc sống của đồng bào nơi đây dường như tách biệt với đồng bằng, nhất là những tháng mùa mưa lụt. Buôn làng vốn ít khi có người lạ lai vãng, bởi vậy khi biết chúng tôi lặn lội đến tìm hiểu về những huyền thoại của đồng bào mình, anh La Chí Tâm (Bí thư Chi bộ làng Đồng) vô cùng ngạc nhiên.
Theo anh Tâm, nói đến những huyền thoại thì phải nói đến loài cây Lon chi ngăng, tức cây thần độc. Núi La Huyên hùng vĩ trải dài chừng 10 cây số đến phía nam thì bị chắn ngang bởi dãy Konclo (rừng thiêng). Đây chính là nơi ẩn mình của loài cây Lon chi ngăng, loài cây tạo nên “bùa hộ mệnh” Brăm chi ngăng, tức mũi tên độc.
Điều đặc biệt, núi rừng ở đây trùng trùng điệp điệp nhưng Lon chi ngăng chỉ mọc ở dãy Konclo. Những cư dân Ba Na xa xưa lý giải rằng: “Con cá bơi dưới suối, cây cối mọc trên rừng, còn cây thần độc thì chỉ mọc ở rừng thiêng mà thôi”.
Theo chân anh La Chí Tâm, chúng tôi rời làng, bắt đầu cuộc hành trình đến với loài cây huyền thoại. Núi Konclo nằm ở phía nam làng Đồng, cách chỉ vài cây số nhưng đường đi khá hiểm trở. Điều may mắn, cây Lon chi ngăng cổ thụ bậc nhất mọc ở dưới chân dãy núi thiêng.
Sau một hồi len lỏi dưới bóng rừng già, anh Tâm dừng lại, chỉ tay về phía cây cổ thụ to lớn trước mặt, đó chính là cây Lon chi ngăng. Cây to chừng 3 người ôm, phần thân trơn tru, vút thẳng lên trời. Khi đến tán rừng, cây vươn mình ra tứ phía, cành lá xum xuê.
Hình ảnh đầu tiên rất dễ nhận thấy là từ gốc lên cao trên 2 m, xung quanh thân cây chi chít những vết thẹo ụn lên, hằn chằng chịt do những vết dao rìu băm chặt để lấy nhựa mủ. Anh bí thư chi bộ cho biết, dù đã hàng chục năm trôi qua nhưng những vết tích trên thân cây vẫn còn. Nói về sự lợi hại của chất độc sau lớp vỏ cây, anh La Chí Tâm khẳng định:“Nhìn cây bình thường vậy thôi nhưng là cực độc đấy!”.
Thấy chúng tôi hoài nghi, anh tiếp lời: “Từ bé mình đã nghe các cụ kể rằng, người bị thương, chỉ cần chạm vào chất độc được làm từ mủ cây Lon chi ngăng này thì chắc chắn sẽ chết. Thế nên các cụ mới dùng độc trong cây mà đánh đuổi thú rừng, đánh giặc ngoại xâm”.
Huyền thoại diệt trừ gấu dữ
Rời rừng thiêng trở về làng, anh La Chí Tâm đưa chúng tôi đến gặp cụ Oi Huy (70 tuổi). Kể về chiến tích và huyền thoại của dân làng, cụ Oi Huy bồi hồi: “Ông nội tôi kể lại, tổ tiên người Ba Na chúng tôi đặt chân đến vùng đất này từ hàng trăm năm trước. Giữa chốn rừng thiêng nước độc, tổ tiên sống dựa vào cây cỏ trên rừng. Cây cối thì có cây trị bệnh thì cũng có cây chứa độc. Cách đây hơn 100 năm, ông bà đã phát hiện ra chất kịch độc trong cây Lon chi ngăng…”.
Khi phát hiện ra cây thần độc, người xưa vừa sử dụng vừa mày mò điều chế để làm nên mũi tên độc, dùng khi mãnh thú tấn công xuống làng, bắt người và gia súc. Đây là một trong những vũ khí hữu hiệu nhất mỗi khi dân làng đối mặt với những mối nguy hiểm. Và nó đã trở thành huyền thoại đối với dân làng khi cách đây hơn trăm năm, trong vùng bỗng xuất hiện có một con gấu ngựa dữ tợn.
Chuyện lưu lại rằng, khi gặp người, con gấu ngựa xông thẳng vào vật ngã, giày xéo cho đến tan xương nát thịt. Sau cùng, gấu ngựa dùng móng vuốt sắt nhọn móc đi đôi mắt nạn nhân. Từ khi con gấu ngựa xuất hiện, năm nào dân trong vùng cũng có một vài người chết.
“Ông bà kể, con gấu ngựa đó đã thành tinh rồi, không phải gấu ngựa thường. Loài gấu ngựa có mắt xuôi nên chúng ghét con người có đôi mắt ngang. Nó gặp người đi rừng thì đuổi cùng giết tận, móc luôn đôi mắt”, cụ Oi Huy kể.
Thời đó, một vị già làng tên Ma Ngoe đi rừng đốn cây thì gặp phải gấu ngựa tinh. Như những nạn nhân trước đó, ông Ma Ngoe bị ngấu ngựa tấn công, chết không toàn thay. Thấy cha đi rừng không trở về, chàng Ma Bá, con trai ông Ma Ngoe đi tìm. Ma Bá tìm thấy xác cha thì gào khóc thảm thiết vì mặt ông bị giập nát, đôi mắt không còn.
Đêm đó, sau khi lo ma chay cho cha xong, Ma Bá và dân làng bàn cách tiêu trừ gấu ngựa tinh. Mọi người thống nhất dùng chất kịch độc của cây Lon chi ngăng để tiêu trừ gấu ngựa tinh. Thanh niên trai tráng, kẻ được phân công chuẩn bị cung tên, người đi lấy mủ cây về luyện độc. Khi đã chuẩn bị đủ, chất độc được tẩm vào mũi tên để chuẩn bị đối phó gấu ngựa tinh. Ma Bá vốn là tay cung thiện xạ của làng, đã xung phong đi đầu, thề phải tiêu diệt bằng được dã thú, trước là để trả thù cho cha, sau là trừ họa cho làng.
Ma Bá vác cây cung to, cánh dài hai thước, lưng đeo ống tên tẩm độc tiến vào rừng sâu. Gần một tuần băng rừng lội suối, Ma Bá tìm ra khu rừng con gấu thường ẩn trú. Ma Bá tìm một chỗ kín lặng lẽ mai phục. Khi mặt trời vừa đứng bóng, con gấu ngựa màu nâu xám xuất hiện. Chờ con gấu đến gần, Ma Bá nhảy phốc ra, vừa giương cung vừa hét lớn.
Gấu ngựa tinh hăng máu, co chân nhảy vồ tới. Ma Bá nhanh như chớp, vừa né sang bên vừa đưa cung lên vừa bắn phập mũi tên vào ức con dã thú. Chất cực độc chưa phát tát nên con gấu giận dữ gầm lên, lồng lộn tiến về phía Ma Bá. Chàng trai chẳng hề nao núng, vừa vừa di chuyển, chạy qua, lách lại theo kiểu chữ chi vừa bắn tên.
Đến khi hết sạch cung tên, Ma Bá tìm cách thoát thân. Ma Bá chạy một đoạn khá xa, dừng lại nghe ngóng thì không còn nghe thấy tiếng gầm gừ của con gấu. Ma Bá đánh bạo quay trở lại thì thấy một vùng bụi rậm bị quần nát.
Cạnh đó, xác con vật nằm chỏng chơ bất động, phơi mình giữa trời. Nghe tin Ma Bá diệt trừ được gấu dữ, mọi người mừng vui khôn xiết. Dân làng mở hội ăn mừng vì gấu ngựa tinh đã bị diệt trừ, cuộc sống dân làng trở về bình yên. Ma Bá trở thành người anh hùng và Brăm chi ngăng được xem như“bùa hộ mệnh” của dân làng. Huyền thoại diệt trừ gấu dữ là như vậy đó.
Vũ khí khiến giặc khiếp sợ
Một thời gian dài sau khi diệt trừ gấu ngựa tinh, dân làng Đồng phải đối mặt với một kẻ thù mới đáng sợ hơn, đó là thực dân Pháp. Cụ Ma Doãn (85 tuổi) – một cao niên trong làng kể, những năm kháng chiến chống Pháp, súng ống chưa có để dùng nhiều. Khi giặc Pháp tràn vào bản làng để cướp bóc, giết hại bà con, người làng tìm cách đánh trả.
Trai tráng trong làng được cử đi lấy mủ cây Lon chi ngăng mang về chế tạo chất độc để làm nên thứ vũ khí mà giặc Pháp không thể nào ngờ tới. Dân làng thành lập các đội quân gồm những trai tráng trong làng với những tay cung, nỏ thiện xạ. Đội quân này vai mang vũ khí tẩm độc mai phục trên các ngọn đồi, ẩn mình trên cây, trong bụi rậm, chờ bọn giặc đi qua là nhằm vào mà bắn theo lối đánh du kích.
“Quân Pháp dùng súng bắn mình thì mình có thể không chết. Còn cung nỏ mình đã bắn trúng thì có thể khiến quân giặc trúng độc. Mỗi lần thấy đồng đội chết không chảy máu, cả toán quân Pháp kinh hoàng bỏ chạy. Chúng hoang mang không biết vì sao đạn đồng đạn sắt của mình lại thua một mũi tên vót từ cây rừng”, già làng Ma Doãn kể.
Bị tiêu hao sinh lực, giặc Pháp điên cuồng đánh phá, giết hại đồng bào. Dân làng Đồng không chịu khuất phục, dắt díu nhau trốn vào rừng sâu, sống nhờ cây trái, chim thú. Những thanh niên trai tráng ban ngày len lỏi dưới tán rừng già, đêm đến tìm cách “săn” địch.
Địch một phần không quen địa hình, phần lại ám ảnh chất độc chết người nên không dám tấn công vào rừng. Lực bất tòng tâm, quân giặc phải rút mà chẳng thể lần ra được thứ chất độc bí ẩn. Bản làng sạch bóng quân thù, người Ba Na lại trở về làng xây dựng cuộc sống mới. Thế nhưng chẳng bao lâu sau, giặc Mỹ - ngụy lại đến giày xéo quê hương. Căm ghét giặc Mỹ tàn bạo, nhiều phen bắt bớ, giết hại đồng bào, già làng trưởng bản họp dân làng, bàn kế giết giặc.
Những nhóm trai bản được tuyển chọn, nhờ các chiến sĩ cách mạng huấn luyện lối đánh du kích. Vũ khí chủ yếu vẫn là mũi tên tẩm chất độc làm từ cây Lon chi ngăng dưới chân núi thiêng. Suốt những năm kháng chiến chống Mỹ, dân làng Đồng với tinh thần bất khuất lại làm nên bao chiến công. Brăm chi ngăng tuy là vũ khí thô sơ nhưng “uy lực” mà nó tạo ra không kém gìsúng đạn.
“Giặc Mỹ cao to, nhiều súng ống nhưng sợ trúng độc của mình lắm. Biết mình dùng chất độc nên nó cảnh giác. Nhưng mình có cán bộ cách mạng chỉ dẫn nên vẫn đánh được giặc, nhiều lính Mỹ trúng độc cây Lon chi ngăng”, già làng Ma Doãn kể.
Nhiều huyền thoại dùng độc Đồng bào Raglai nằm dưới chân núi Cao Mô Xe, thôn Ba Dùi, xã Khánh Bình (Khánh Vĩnh, Khánh Hòa) còn lưu giữ bí quyết của một loại độc dược vô cùng lợi hại. Độc dược dùng để tẩm vào mũi tên được người Raglai gọi với cái tên là u cả... Bất cứ con gì, loài gì có máu mà u cả dính vào thì chỉ có chết. Đồng bào Cơtu ở các huyện miền núiĐôngGiang, TâyGiang vàNam Giang (tỉnh Quảng Nam) vẫn còn lưu truyền huyền thoại kỳ bí về kịch độc Ch’pơơr, có thể gây chết người chỉ sau vài phút. kịch độc Ch’pơơr chẳng những giúp đồng bào Cơtu săn bắn, tự vệ mà còn làm nên những chiến thắng lẫy lừng trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ. Đồng bào Pa Kô ở Quảng Trị cũng được cho là biết cách sử dụng độc chất từ mủ cây rừng để tẩm vào mũi tên dùng bắn nỏ khisăn bắt thú dữ. |
|
Vỏ cây thần độc với chằng chịt vết thẹo. |
Chỉ còn trong ký ức
Khi đất nước sạch bóng quân thù, cuộc sống dân làng Đồng trở về yên bình, mũi tên độc cũng chỉ được sử dụng để săn bắt, xua đuổi thú rừng. Càng về sau, việc sử dụng chất độc của loài cây Lon chi ngăng càng ít dần.
Cách bào chế độc đã chính thức thất truyền khi truyền nhân cuối cùng, người nắm giữ công thức để tạo nên “bùa hộ mệnh” Brăm chi ngăng đó là ông Ma Thìn, đã mất cách đây gần 10 năm. Bà Mí Thìn (SN 1964, vợ ông Ma Thìn) cho biết, gia đình bà 3 đời nay truyền cho nhau cách bào chế thuốc độc từ cây Lon chi ngăng.
Tuy nhiên, chồng bà không truyền lại bí kíp luyện độc cho bất cứ ai, kể cả con cháu trong nhà. “Ông nội dạy cho cha, cha dạy cho chồng tôi. Cũng như dạy võ nghệ, những người đi trước phải cầm tận tay, chỉ từng việc thì con cháu mới học được. khi truyền cũng chỉ truyền cho người ngay thẳng, tốt bụng để tránh việc nó bị sử dụng để hại người…”, bà Mí Thìn tâm sự.
Sinh thời, Ma Thìn một thời nối nghiệp gia truyền, tên tuổi nổi danh trong giới săn thú rừng nơi buôn làng. Đến những năm cuối đời, Ma Thìn từ bỏ việc bào chế thuốc độc. Nhà có 5 người con trai nhưng Ma Thìn dứt khoát không truyền bí kíp cho ai. Bởi ông thấy rằng, ngày trước độc dược được chế để săn bẫy thú dữ, chống giặc ngoại xâm.
Ngày nay, thú rừng không đủ cho súng đạn lâm tặc săn bắn thì chế thuốc để làm gì. Theo một số bậc cao niên, chất độc của mủ cây Lon chi ngăng vô cùng đáng sợ nhưng bản thân nó thì chưa đủ làm nên“bùa hộ mệnh”Brăm chi ngăng.
Theo đó, muốn độc phát tát nhanh, sớm hạ gục thú giữ và quân thù thì ông bà ta kết hợp độc tính của cây thần độc với các loại độc tự nhiên khác. Qua tìm hiểu, chúng tôi biết được có hai cách bào chế độc dược từng được tiền nhân sử dụng. Cách thứ nhất, nhựa cây Lon chi ngăng được kết hợp với một vài loài bò sát có nọc độc ví dụ như rắn rết, bò cạp.
Các chất độc được tiết chế, phối lại với nhau theo tỉ lệ rồi ngâm với nước tiểu đựng trong ống tre nứa sắp mục thối ở rừng. Hỗn hợp chất độc được ngâm đủ một thời gian để độc tính cây Lon chi ngăng mang trong mình độc tính của các loại độc khác. Đây chính là cách điều chế mà ông Ma Thìn sử dụng khi còn trẻ.
Cách thứ hai, người bào chế phải tìm bắt loài sâu sống dưới lòng đất mà người Ba Na gọi là truôn, sau đó lại phải lặn lội vào rừng bắt rắn hổ chúa để mang về chặt lấy đầu. Nguyên tắc là khi bắt và chặt đầu rắn hổ chúa, người bào chế không được để nó phóng nọc độc.
Đầu rắn chứa nọc độc được cho vào nồi nấu chung với nhựa cây Lon chi ngăng và sâu đất cho đến khi chỉ còn là thứ cao đặc quánh. Mũitên vót nhọn khi được tẩm độc dược làm từ một trong 2 cách điều chế trên thìsẽ trở thành một Brăm chi ngăng đúng nghĩa. Các bậc cao niên cho biết, đây chỉ là những phương thức cơ bản để chế tạo độc được.
Còn việc phối hợp chất độc theo tỷ lệ như thế nào, chitiếttừng công đoạn ra sao thì sau khi ông Ma Thìn mất, không còn một ai nắm được. Cây thần độc, mũi tên độc và những chiến tích huyền thoại vẫn sống mãi trong lòng đồng bào Ba Na làng Đồng. Bíp kíp tạo nên mũi tên độc - Brăm chi ngăng đã theo Ma Thìn và bao lớp tiền nhân về thế giới bên kia, chất độc từ cây Lon chi ngăng nay đã không còn được sử dụng nhưng loài cây này vẫn được dân làng bảo vệ.
“Dân làng mình dù có đói khổ cũng không phá rừng ở dãy núi thiêng. Còn cây Lon chi ngăng là loài cây linh thiêng, con cháu nghe lời ông bà cũng không bao giờ mạo phạm”, anh bí thư chi bộ tâm sự.