![]() |
| Công nghiệp văn hóa đang trở thành động lực mới của tăng trưởng kinh tế và “sức mạnh mềm” quốc gia. (Ảnh trong bài: Hiệp hội Phát triển CNVH Việt Nam) |
Trong bối cảnh triển khai Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn 2045, yêu cầu hoàn thiện thể chế và cơ chế, chính sách ngày càng trở nên cấp thiết.
Một hệ thống pháp lý đồng bộ, hiện đại và phù hợp với xu thế phát triển của thời đại sẽ tạo nền tảng để doanh nghiệp và đội ngũ sáng tạo phát huy tiềm năng, đồng thời khơi dậy sức mạnh nội sinh của văn hóa, phục vụ mục tiêu phát triển nhanh và bền vững đất nước.
Yêu cầu cấp bách về hoàn thiện thể chế công nghiệp văn hóa
Tại Việt Nam, định hướng lớn về phát triển công nghiệp văn hóa (CNVH) được xác lập trong nhiều văn kiện của Đảng và Nhà nước, đặc biệt là Nghị quyết số 33-NQ/TW năm 2014 về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam; Văn kiện Đại hội XIII của Đảng; Chiến lược phát triển các ngành CNVH đến năm 2030. Những chủ trương này thống nhất quan điểm: văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, đồng thời là nguồn lực quan trọng cho phát triển, trong đó CNVH là một trụ cột cần được ưu tiên thúc đẩy.
Dù nhiều lĩnh vực văn hóa - sáng tạo đang có bước phát triển đáng ghi nhận, hệ thống thể chế và cơ chế chính sách liên quan vẫn bộc lộ những hạn chế.
Đơn cử, một số lĩnh vực chưa có khung pháp lý rõ ràng, gây khó khăn trong tổ chức sản xuất và phân phối sản phẩm văn hóa.
Cụ thể, các lĩnh vực thuộc CNVH chịu sự điều chỉnh của nhiều luật chuyên ngành như: Luật Điện ảnh, Luật Di sản văn hóa, Luật Xuất bản, Luật Quảng cáo, Luật Sở hữu trí tuệ…
Tuy nhiên, các luật này chưa có sự liên kết chặt chẽ, dẫn đến tình trạng chồng chéo, thiếu thống nhất trong triển khai thực tiễn.
Các sản phẩm văn hóa đa phương tiện phải xin phép qua nhiều đầu mối, làm tăng thời gian và chi phí cho doanh nghiệp.
Đặc biệt, sự phát triển nhanh của công nghệ số khiến nhiều quy định pháp lý chưa kịp cập nhật, nhất là trong quản lý nội dung trực tuyến, bảo vệ bản quyền trên môi trường số và điều tiết các nền tảng truyền thông - giải trí xuyên biên giới.
CNVH có đặc thù rủi ro cao, cần vốn đầu tư lớn và phụ thuộc nhiều vào khả năng đổi mới sáng tạo. Tuy nhiên, cơ chế hỗ trợ tài chính của Nhà nước cho lĩnh vực này vẫn còn hạn chế.
Doanh nghiệp khó tiếp cận vốn tín dụng ưu đãi; các mô hình quỹ đầu tư mạo hiểm cho ngành sáng tạo chưa phát triển; chính sách thuế đối với sản xuất phim, nội dung số, phần mềm và các trò chơi giải trí, thiết kế… chưa tạo sức hấp dẫn đủ lớn.
Trong khi đó, các quốc gia có CNVH phát triển đều xây dựng chính sách tài chính mạnh, như quỹ hỗ trợ sáng tạo, ưu đãi thuế cho sản xuất nội dung, hỗ trợ chi phí quảng bá quốc tế.
Việt Nam đã có chủ trương đẩy mạnh chuyển đổi số trong văn hóa, nhưng tiến độ thực hiện vẫn chưa đồng đều.
Đơn cử, công tác số hóa di sản, tư liệu, tác phẩm văn hóa còn rời rạc, thiếu tính hệ thống.
Hạ tầng phân phối nội dung số trong nước chưa đủ mạnh để cạnh tranh với nền tảng quốc tế.
Bên cạnh đó, chưa có hệ thống cơ sở dữ liệu chung về CNVH để hỗ trợ hoạch định chính sách và phát triển thị trường; ứng dụng công nghệ mới như AI, VR, AR trong sáng tạo nội dung còn ở quy mô nhỏ.
Những vấn đề này khiến doanh nghiệp Việt Nam gặp khó khăn khi tham gia vào chuỗi giá trị nội dung số toàn cầu.
Nguồn nhân lực sáng tạo giữ vai trò trung tâm trong phát triển CNVH. Tuy nhiên, công tác đào tạo còn nặng lý thuyết, ít gắn với nhu cầu thực tiễn; thiếu chương trình đào tạo chuyên sâu về thiết kế sáng tạo, sản xuất phim, hoạt họa, game, kỹ thuật số…; chưa hình thành hệ sinh thái kết nối giữa nhà trường - doanh nghiệp - cơ quan quản lý.
Sự thiếu hụt nhân lực chất lượng cao khiến sản phẩm văn hóa khó cạnh tranh trên thị trường quốc tế.
Nhằm giải quyết những vấn đề bất cập và thách thức hiện hữu, việc hoàn thiện thể chế trở thành nhiệm vụ trọng tâm nhằm tạo hành lang pháp lý đồng bộ, minh bạch và hiệu quả cho phát triển CNVH.
Nền tảng kiến tạo trong kỷ nguyên vươn mình
Quyết định số 2486/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược phát triển các ngành CNVH Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 đã đề ra những nhiệm vụ trọng tâm về hoàn thiện thể chế, cơ chế, chính sách CNVH trong tình hình mới.
![]() |
| Không gian sáng tạo là một trong những hạt nhân thúc đẩy phát triển CNVH. |
Trước hết là phải khẩn trương xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật để hoàn thiện công tác quản lý nhà nước về CNVH và định hướng phát triển một số loại hình của công nghiệp giải trí. Cùng với đó là phải hoàn thiện cơ sở pháp lý về chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch và các Bộ, ngành, địa phương trong quản lý và phát triển các ngành CNVH, công nghiệp giải trí, phù hợp với quy định về phân cấp, phân quyền, phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương mới (2 cấp) trong lĩnh vực văn hóa, thể thao và du lịch, lĩnh vực có liên quan; rà soát, điều chỉnh, bổ sung cơ chế phối hợp hiệu quả giữa các Bộ, ngành, địa phương.
Công tác rà soát và hoàn thiện khuôn khổ pháp luật cho CNVH tiếp tục được thúc đẩy theo hướng toàn diện và đồng bộ. Đơn cử, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các quy định pháp luật đối với các ngành CNVH như điện ảnh, nghệ thuật biểu diễn, quảng cáo, phần mềm và các trò chơi giải trí, thủ công mỹ nghệ, du lịch văn hóa... nhằm tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, đáp ứng yêu cầu ứng dụng thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
Đáng chú ý, để tạo sức hút đầu tư, Chiến lược chỉ rõ phải rà soát, hoàn thiện cơ chế, chính sách liên quan về tài chính, thuế, đầu tư, đầu tư công, đối tác công - tư... nhằm huy động sự tham gia đầu tư mạnh mẽ của cá nhân, doanh nghiệp.
Cùng với đó, quá trình rà soát và nghiên cứu các đối tượng thuộc lĩnh vực ưu tiên phát triển cũng được triển khai để xem xét bổ sung Danh mục ngành, nghề đặc biệt ưu đãi đầu tư theo quy định của pháp luật về đầu tư và xác định phạm vi áp dụng trong các khu CNVH, trung tâm, tổ hợp và không gian sáng tạo. Đồng thời, nghiên cứu, xây dựng chính sách ưu đãi phù hợp nhằm thúc đẩy đầu tư phát triển các ngành CNVH, công nghiệp giải trí thông qua chính sách thuế nhập khẩu, sử dụng đất phi nông nghiệp, thu nhập doanh nghiệp... dành cho doanh nghiệp thực hiện dự án đầu tư vào các ngành CNVH.
Mức thuế suất, thuế giá trị gia tăng được tính toán thích hợp đối với các loại hàng hóa, dịch vụ của các ngành CNVH theo từng giai đoạn và lĩnh vực cụ thể.
Cùng với đó, các cơ quan chức năng đẩy mạnh nghiên cứu chính sách sử dụng tài sản sở hữu trí tuệ để vay vốn ưu đãi cho hoạt động sáng tạo, hỗ trợ đầu tư cho các cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp sáng tạo nhằm phát triển các sản phẩm CNVH.
Các đơn vị liên quan tiếp tục nghiên cứu, đề xuất hình thành và liên kết các quỹ hỗ trợ phát triển CNVH, công nghiệp giải trí; tạo điều kiện để cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp kết nối với các quỹ đầu tư mạo hiểm và khởi nghiệp sáng tạo; đồng thời rà soát, bổ sung chức năng, nhiệm vụ của Quỹ hỗ trợ phát triển du lịch để góp phần thúc đẩy sự phát triển của các ngành CNVH Việt Nam.
Mặt khác, nhằm giải quyết những bất cập nhức nhối về vi phạm bản quyền, cản trở sáng tạo chân chính, Chiến lược nêu bật nhiệm vụ nghiên cứu, đề xuất xây dựng Luật Bản quyền tác giả để nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý, thực thi, khai thác và bảo hộ quyền tác giả, quyền liên quan; tạo động lực sáng tạo và sản xuất các sản phẩm CNVH, công nghiệp giải trí chất lượng cao, khuyến khích cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp tham gia kinh doanh các ngành, lĩnh vực liên quan đến CNVH.
Các nhiệm vụ quan trọng khác bao gồm: xây dựng và hoàn thiện, áp dụng hệ thống chỉ tiêu thống kê các ngành CNVH để phục vụ đánh giá và hoạch định cơ chế, chính sách phát triển phù hợp theo từng giai đoạn; rà soát, bãi bỏ các thủ tục hành chính không còn phù hợp với thực tiễn, giấy phép “con” theo đúng chủ trương, chỉ đạo của cấp có thẩm quyền; hoàn thiện chính sách quản lý, sử dụng đất đai, các quy hoạch cấp quốc gia và quy hoạch liên quan theo hướng bảo đảm phù hợp, thống nhất, đồng bộ, gắn kết chặt chẽ để góp phần phát triển CNVH, công nghiệp giải trí.
Thể chế và cơ chế, chính sách cho CNVH được kỳ vọng sẽ mở đường cho đổi mới sáng tạo, thu hút đầu tư và phát huy sức mạnh nội sinh của văn hóa. Đây chính là nền tảng quan trọng nhất để ngành CNVH bứt phát trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.