![]() |
| Chính sách bảo vệ môi trường cần sớm đi vào thực tiễn đời sống, thúc đẩy hành động cụ thể, kết quả thực chất. (Ảnh: KTMT) |
Cụ thể, nhấn mạnh nhiệm vụ, giải pháp đột phá trong giai đoạn mới là tập trung đổi mới tư duy và hoàn thiện thể chế, chính sách về bảo vệ môi trường và tổ chức thực thi quyết liệt, hiệu lực, hiệu quả.
Yêu cầu đổi mới tư duy
Nghị quyết nêu rõ việc ban hành và thực hiện chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường kể từ khi Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 có hiệu lực thi hành đã đạt được nhiều kết quả tích cực, quan trọng. Tuy nhiên, việc quy định chi tiết và tổ chức thực hiện Luật Bảo vệ môi trường còn một số hạn chế, bất cập.
Cụ thể, tình trạng ô nhiễm môi trường còn xảy ra ở một số nơi, có thời điểm ở mức độ nghiêm trọng, đặc biệt là ô nhiễm không khí (do bụi mịn) tại các thành phố lớn như Hà Nội, TP Hồ Chí Minh; hạ tầng kỹ thuật về bảo vệ môi trường, nhất là trong thu gom, xử lý chất thải rắn sinh hoạt, nước thải còn thiếu và lạc hậu…
Để phát huy kết quả đạt được, khắc phục những hạn chế, bất cập, thích ứng kịp thời với bối cảnh trong giai đoạn mới, Quốc hội yêu cầu tập trung đổi mới tư duy và hoàn thiện thể chế, chính sách về bảo vệ môi trường và tổ chức thực thi quyết liệt, hiệu lực, hiệu quả; tăng cường và đa dạng hóa nguồn lực cho bảo vệ môi trường; phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số trong lĩnh vực bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu.
Trong năm 2026, Quốc hội yêu cầu tổng kết, đánh giá việc thực hiện và đề xuất sửa đổi, bổ sung Luật Bảo vệ môi trường năm 2020, trình Quốc hội xem xét, thông qua đầu nhiệm kỳ Quốc hội khóa XVI. Đồng thời, rà soát, sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật có liên quan đến thuế, phí bảo vệ môi trường.
Cùng với đó là rà soát, đánh giá và cập nhật, điều chỉnh (nếu cần) các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch có liên quan đến bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu để đáp ứng yêu cầu “mở rộng và kiến tạo không gian phát triển mới”…
Hiệu quả thực chất từ các chương trình quốc gia
Song hành với các quyết sách của Quốc hội nhằm kiến tạo nền tảng thể chế, những chương trình hành động quốc gia cũng đóng vai trò quan trọng trong việc đưa tinh thần chính sách vào đời sống, từ khuôn khổ pháp lý đến hành động cụ thể.
Tại Hội nghị thông tin về Chương trình “Vì môi trường xanh quốc gia 2025” và công bố kết quả khảo sát “Doanh nghiệp ESG xanh quốc gia 2025”, Tiến sĩ Hoàng Hiệp - Viện trưởng Viện Nghiên cứu Tăng trưởng xanh khẳng định: Trong tiến trình thực hiện các cam kết tại COP26, đây là giai đoạn bản lề, đòi hỏi sự chuyển mình mạnh mẽ, quyết liệt, từ nhận thức sang hành động cụ thể, có thể đo lường và đánh giá. Trong bối cảnh đó, Chương trình “Vì môi trường xanh quốc gia” được triển khai theo hướng đi vào chiều sâu chuyên môn, bám sát yêu cầu thực tiễn của quá trình chuyển đổi xanh.
Chương trình đã triển khai nhiều hoạt động chuyên sâu như: các khóa đào tạo về hành trình Net Zero, tài chính xanh dành cho doanh nghiệp; xây dựng và vận hành hoạt động giám sát, đánh giá doanh nghiệp theo bộ tiêu chí ESG (Môi trường - Xã hội - Quản trị) quốc gia; thúc đẩy các sáng kiến về kinh tế xanh, thiết kế sáng tạo vì môi trường…
Tối ưu vận hành, nâng cấp thương hiệu
Chia sẻ về hoạt động thực tế của mình, ông Nguyễn Trung Kiên - Giám đốc điều hành miền Bắc Công ty Cổ phần Gỗ An Cường khẳng định: “An Cường kiên định hành trình hướng tới Net Zero và xem đây là định hướng trọng tâm trong chiến lược phát triển bền vững của DN. Chúng tôi triển khai chiến lược ESG toàn diện, trong đó giảm phát thải được thực hiện xuyên suốt từ vật liệu đến vận hành và các hoạt động cộng đồng”.
Cụ thể, ông Kiên cho biết, về sản phẩm, An Cường phát triển các dòng vật liệu đạt tiêu chuẩn phát thải thấp; Trong vận hành, tối ưu năng lượng, tăng cường tự động hóa và thực hiện kiểm kê khí nhà kính theo tiêu chuẩn nhằm bảo đảm quản trị chất lượng - môi trường - an toàn một cách đồng bộ, hỗ trợ DN kiểm soát phát thải và nâng cao hiệu quả vận hành. DN cũng từng bước ứng dụng năng lượng sạch như hệ thống điện mặt trời.
Song song đó, An Cường hợp tác với nhà cung cấp và cộng đồng kiến trúc sư - nhà thiết kế để lan tỏa việc sử dụng vật liệu bền vững, đồng thời tham gia các chương trình trồng rừng nhằm góp phần tăng mảng xanh và hấp thụ CO2 tại các khu vực cần phục hồi sinh thái.
Trong hoạt động sản xuất và vận hành, An Cường quản lý và giảm thiểu tác động môi trường thông qua ba nhóm giải pháp chính: Thứ nhất, DN kiểm soát đầu vào bằng cách sử dụng các vật liệu phát thải thấp đạt chuẩn E1, EPA, CARB, Greenguard, Green Label, bảo đảm an toàn sức khỏe người dùng và giảm rủi ro môi trường.
Thứ hai, DN vận hành hệ thống quản lý theo các tiêu chuẩn quốc tế như ISO 9001, ISO 14001 và ISO 45001 để bảo đảm quản lý chất lượng, môi trường và an toàn lao động một cách đồng bộ; Tối ưu hóa quy trình sản xuất, tăng cường tự động hóa, triển khai các biện pháp tiết kiệm năng lượng và từng bước ứng dụng nguồn năng lượng sạch.
Thứ ba, DN thực hiện kiểm kê khí nhà kính theo tiêu chuẩn ISO 14064, giúp theo dõi và quản trị phát thải hằng năm một cách minh bạch; Đồng thời giảm hao hụt vật liệu và tuân thủ nghiêm các quy trình quản lý chất thải. Những giải pháp này giúp An Cường kiểm soát tác động môi trường một cách toàn diện trong cả sản xuất và vận hành.
Đại diện cho Công ty Cổ phần GreenFeed Việt Nam, DN chuyên sản xuất thức ăn chăn nuôi, ông Phạm Tuấn Anh - Giám đốc Khối Phát triển bền vững cũng đánh giá, ESG không còn được xem là chi phí, mà là công cụ quản trị giúp tối ưu vận hành, cải thiện hình ảnh thương hiệu và mở rộng cơ hội hợp tác.
Việc tham gia sớm giúp DN làm quen với yêu cầu mới, trước khi ESG trở thành điều kiện bắt buộc. Thông qua hỗ trợ từ chương trình, GreenFeed Việt Nam đã xác định rõ những nhóm giải pháp trọng tâm nhằm tham gia lộ trình phát thải ròng bằng 0.
Trước hết là rà soát toàn bộ nguồn phát thải trong chuỗi sản xuất để tối ưu quy trình. DN cũng từng bước chuyển đổi nhiên liệu hóa thạch sang biogas cho hệ thống nồi hơi, đồng thời đầu tư điện mặt trời áp mái để bổ sung nguồn năng lượng sạch.
Bên cạnh đó, DN cũng thu hồi chất thải, tăng cường vệ sinh và bảo vệ môi trường, đồng thời chuyển đổi xe nâng từ chạy dầu sang chạy điện.
Trong chăn nuôi, DN đẩy mạnh cho ăn và cấp nước tự động, vận chuyển thức ăn trực tiếp đến chuồng trại bằng hệ thống xy lô, qua đó giảm khoảng 500 - 600 tấn nhựa thải ra môi trường mỗi năm, từng bước hạn chế và tiến tới không sử dụng bao bì nhựa chứa thức ăn chăn nuôi.
Theo ông Phạm Tuấn Anh, ESG là quá trình dài hạn, đi kèm áp lực từ yêu cầu thị trường, khách hàng và thể chế, đồng thời đòi hỏi DN phải đầu tư về vốn rất lớn.
Từ những đòi hỏi, khó khăn và thách thức đó, ông Phạm Tuấn Anh kiến nghị, cần tạo điều kiện thuận lợi hơn trong tiếp cận tín dụng xanh cho DN; Mở rộng cơ chế sử dụng điện mặt trời, điện áp mái; Hoàn thiện các tiêu chuẩn nông nghiệp tuần hoàn, đặc biệt là quy định sử dụng nước thải sau chăn nuôi cho trồng trọt nhằm tận dụng hiệu quả nguồn phân lỏng, hạn chế các rủi ro ra môi trường…
Tags: