Trong vụ án, phần lớn các bị cáo đều khẳng định bản thân không phạm tội như cáo trạng xác định, các bị cáo không vụ lợi, nhiều bị cáo kêu oan.
Mới đây, TAND tỉnh Phú Thọ (cơ sở 3) mở phiên tòa xét xử các bị cáo Bùi Văn Sơn (SN 1966, trú phường Hoà Bình, tỉnh Phú Thọ); Ngô Quang Lợi (SN 1980, trú phường Hoà Bình, tỉnh Phú Thọ); Phạm Thị Chính (SN 1965, phường Hoà Bình, tỉnh Phú Thọ); Nguyễn Cảnh Hậu (SN 1964, trú phường Hoà Bình, tỉnh Phú Thọ); Phạm Đức Mậu (SN 1969, trú phường Hoà Bình, tỉnh Phú Thọ); Phạm Kiên Cường (SN 1965, trú phường Hoà Bình, tỉnh Phú Thọ); Nguyễn Khắc Truyện (SN 1959, trú phường Yên Hoà, TP Hà Nội); Nguyễn Đăng Nam(SN 1979, trú phường Thượng Cát, TP Hà Nội); Bùi Hưng Thịnh (SN 1962, trú phường Bình Dương, TP Hồ Chí Minh) về tội "Vi phạm quy định về hoạt động ngân hàng, hoạt động khác liên quan đến hoạt động ngân hàng" theo Điều 206 Bộ luật Hình sự năm 2015.
Tuy nhiên, phiên tòa đã phải hoãn vì vắng luật sư và một số người có nghĩa vụ liên quan đến vụ án. Một điều đáng lưu ý, các bị cáo nguyên là các lãnh đạo, cán bộ của Ngân hàng này đều khẳng định mình không vụ lợi cá nhân và kêu oan.
 |
| Trụ sở TAND tỉnh Phú Thọ (Cơ sở 3). |
Các bị cáo kêu oan, cho rằng bản thân không vụ lợi
Theo kết luận nội dung cáo trạng xác định, các bị cáo Bùi Văn Sơn, Ngô Quang Lợi, Phạm Thị Chính, Nguyễn Cảnh Hậu, Phạm Đức Mậu, Phạm Kiên Cường, Nguyễn Khắc Truyện, Nguyễn Đăng Nam và Bùi Hưng Thịnh đều là người có năng lực trách nhiệm hình sự, các bị can đã có hành vi vi phạm quy định về hoạt động ngân hàng và gây thiệt hại tài sản.
Cụ thể, Bùi Văn Sơn biết rõ một số tài sản của công ty không đủ điều kiện nhận làm tài sản bảo đảm, nhưng vẫn nhận thế chấp…gây thiệt hại số tiền lớn cho ngân hàng Nhà nước, bị cáo Ngô Quang Lợi dù đã được người thẩm định, người kiểm soát khoản vay kiến nghị không tiếp tục cho vay do khả năng tài chính của công ty yếu kém, không có khả năng trả nợ theo cam kết nhưng bị cáo giao Phạm Thị Chính và Nguyễn Cảnh Hậu lập hồ sơ cho vay dẫn đến thiệt hại lớn.
Các bị cáo Phạm Thị Chính, Nguyễn Cảnh Hậu, Phạm Đức Mậu, Phạm Kiên Cường, cáo trạng cũng xác định các bị cáo trên gây thiệt hại lớn cho ngân hàng Nhà nước. Các bị cáo phạm tội "Vi phạm quy định về hoạt động ngân hàng, hoạt động khác liên quan đến hoạt động ngân hàng".
Bị cáo Nguyễn Khắc Truyện, chỉ đạo, biết việc thẩm định, tự xác định giá trị tài sản của 4 hợp đồng thế chấp giữa công ty và ngân hàng không có căn cứ, cao hơn nhiều so với giá trị còn lại trên sổ sách.
Bị cáo Nguyễn Đăng Nam, là người trực tiếp thực hiện hành vi nâng khống giá trị tài sản bảo đảm khi thẩm định giá để cấp tín dụng…
Bị cáo Bùi Hưng Thịnh ký phương án khắc phục lỗ, phương án sản xuất – kinh doanh nâng khống vùng nguyên liệu để đáp ứng điều kiện vay vốn và ký các hợp đồng tín dụng số…
Tuy nhiên, dù tại cơ quan điều tra hay trong đơn kêu cứu gửi đến các cơ quan ban ngành từ Trung Ương đến địa phương phần lớn các bị cáo đều khẳng định bản thân không phạm tội như cáo trạng xác định, các bị cáo không vụ lợi gì trong sự việc trên, nhiều bị cáo kêu oan.
Nhiều tình tiết vụ án cần được làm sáng tỏ
Liên quan đến vụ án trên, luật sư TS.LS, Hoàng Anh Tuấn (Đoàn Luật sư TP Hà Nội, là người bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho bị cáo) cho rằng: Các cơ quan tố tụng, thì CQĐT có dấu hiệu sai sót khi áp dụng khoản 2 Điều 371 BLDS 1995 trong vụ án này vì không đủ điều kiện bù trừ theo luật định.
Bởi lẽ, theo luật sư Hoàng Anh Tuấn việc bù trừ nghĩa vụ được quy định rõ tại Điều 386 Chấm dứt nghĩa vụ dân sự do bù trừ nghĩa vụ "1- Trong trường hợp hai người cùng có nghĩa vụ về tài sản cùng loại đối với nhau, thì khi cùng đến hạn họ không phải thực hiện nghĩa vụ đối với nhau và nghĩa vụ được xem là chấm dứt, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác".
 |
| Các bị cáo tại phiên toà. |
Pháp luật quy định rõ và thực tế Ngân hàng và Công ty Mía Đường không cùng có nghĩa vụ về tài sản cùng loại đối với nhau.
Mặc dù CQĐT xác định bù trừ nghĩa vụ theo khoản vay 1995 của Mía Đường đối với ngân hàng nhưng thực tế không có nghĩa vụ nào được bù trừ để chấm dứt một phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ.
Theo đó, tại trang 3 Cáo trạng số 15-CT-VKSPT-P1 ghi rõ: Để xây dựng nhà máy, ngày 21 và 25/9/1995, Chủ tịch UBND tỉnh Hòa Bình, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Công nghiệp thực phẩm nhất trí đồng bảo lãnh các khế ước vay tiền của Nguyễn Khắc Truyện, Giám đốc Công ty mía đường Hòa Bình có tổng giá trị 6.220.000 USD.
Nội dung Giấy bảo lãnh lập vào tháng 9/1995 ghi rõ nội dung: "Chúng tôi xin chịu trách nhiệm trả nợ thay nếu đến hạn bên vay không trả được các khoản nợ trên đây".
Ngày 30/9/1995, Công ty mía đường Hòa Bình có đơn xin bảo lãnh vay vốn nước ngoài với số tiền 4.976.000 USD để xây dựng nhà nhà máy mía đường.
Ngày 28/10/1995, Công ty mía đường Hòa Bình có đơn xin vay 1.244.000 USD đặt cọc cho công ty xuất nhập khẩu thực nghiệp Tứ Xuyên, Trung Quốc để xây dựng nhà máy đường Hòa Bình (tổng số là 6.220.000 USD).
Trong hai đơn đề nghị nêu trên, Công ty mía đường Hòa Bình được Sở Nông nghiệp tỉnh Hòa Bình (cơ quan chủ quản) xác nhận vào đơn với nội dung: "Đồng ý với đề nghị xin vay và chấp thuận cho doanh nghiệp được sử dụng các tài sản nhà nước để thế chấp với NHNo.
Phần giá trị tài sản còn thiếu được Sở Nông nghiệp bảo đảm để doanh nghiệp vay tiền Nếu doanh nghiệp không trả được nợ và tuyên bố phá sản chúng tôi đồng ý để xử lý tài sản thuộc quyền quản lý của doanh nghiệp theo Điều 38 của Luật phá sản doanh nghiệp".
Đây là nguyên nhân chính để ngày 25/10/1995, Ngân hàng ban hành Thông báo số 1483/NHNo-TD đồng ý chấp thuận cho Công ty mía đường Hòa Bình vay vốn đặt cọc và bảo lãnh vay trả chậm thiết bị với tổng số tiền 6.220.000 USD.
Căn cứ đơn xin vay vốn ngày 30/9/1995 của Công ty mía đường Hòa Bình và Thông báo số 1483/NHNo-TD của NHNo Việt Nam; ngày 11/11/1995, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Hòa Bình (viết tắt NHNo Hòa Bình) và Công ty mía đường Hòa Bình ký hợp đồng bảo lãnh số 75/HN-TD về việc NHNo Hòa Bình bảo lãnh khoản 4.976.000 USD chậm trả thiết bị đường cho Công ty mía đường Hòa Bình và thỏa thuận nội dung: "Đến hạn nợ mà chưa trả được theo đúng hợp đồng thì Công ty mía đường Hòa Bình phải chủ động đề nghị người bảo lãnh với NHNo Hòa Bình (Chủ tịch UBND tỉnh và Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và công nghiệp thực phẩm) có biện pháp tạo nguồn để trả nợ nước ngoài đồng thời phải chấp hành các chế tài tín dụng của NHNo ban hành áp dụng đối với người không trả được nợ đúng hạn".
Thế nhưng chưa rõ tại sao, phía Cơ quan điều tra (sau đây gọi tắt là CQĐT), lại có quan điểm cho rằng UBND tỉnh Hòa Bình (cũ) không phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh?
Cụ thể, tại trang 9 Kết luận điều tra (sau đây gọi tắt là KLĐT), CQĐT xác định "Có căn cứ xác định biện pháp bảo đảm tiền vay là "bảo lãnh bằng tài sản"…và trích dẫn khoản 2 Điều 371 BLDS 1995 "2- Người bảo lãnh không phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh trong trường hợp người nhận bảo lãnh có thể bù trừ nghĩa vụ với người được bảo lãnh".
Ngày 12/1/2022, phía Ngân hàng có văn bản gửi đến cơ quan điều tra thể hiện "Giấy bảo lãnh" của Chủ tịch UBND tỉnh Hoà Bình ký ngày 21/9/1995 và Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp ký ngày 25/9/1995 vẫn còn hiệu lực; Các giao dịch năm 2005 (HĐTD và HĐTC, HĐCC) không thay đổi tài sản đảm bảo.
"Như thế phía ngân hàng xác định chưa bị thiệt hại. Bởi lẽ, phía Bảo lãnh chưa thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh, trả nợ thay của mình. Và khi UBND tỉnh Hoà Bình và Bộ Nông nghiệp thanh toán số tiền bảo lãnh trên thì ngân hàng không thiệt hại" luật sư cho hay.
Trong vụ án còn nhiều tình tiết cần được làm sáng tỏ. Cũng bởi, các cán bộ Ngân hàng không vụ lợi, không động cơ cá nhân mà một lòng cống hiến phục vụ lợi ích phát triển chung của Ngân hàng.
Hiện tại các bị cáo đều bị truy tố theo khoản 4 Điều 206 Bộ Luật Hình sự 2015, đối mặt với mức án từ 12 đến 20 năm tù, phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại nhà nước với số tiền lên đến 40 tỷ đồng, một số tài sản sở hữu cá nhân của họ đều đang bị CQĐT kê biên và phong tỏa, đây thực sự là điều đau xót.
Hy vọng, trong phiên tòa tới đây, HĐXX tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ sẽ có phán quyết công minh, đúng người, đúng tội, theo đúng quy định của pháp luật.