Nhận định mỗi nhiệm kỳ "có lẽ chỉ được duyệt 10 tỷ USD", Bộ trưởng Giao thông tin sẽ thuyết phục được Quốc hội làm đường sắt tốc độ cao.
Tại cuộc họp bàn về phương án công nghệ đường sắt tốc độ cao chiều 11/9, đại diện Tư vấn TEDI-TRICC-TEDISOUTH đã trình bày 3 loại hình tàu cao tốc trên thế giới. Đó là tàu chạy trên ray vận tốc 200-350 km/h, tàu Maglev tốc độ 400-600 km/h, tàu Hyperloop chạy trong ống đạt 900-1.200 km/h. Phổ biến nhất là tàu chạy trên ray với hai công nghệ là động lực phân tán và động lực tập trung.
Tàu cao tốc công nghệ động lực phân tán đã ứng dụng tại Nhật Bản, Đài Loan, Trung Quốc có sức chuyên chở lớn, bình quân mỗi mét 3-4 chỗ. Sử dụng giá chuyển hướng độc lập, chế độ tự nghiêng toa xe giúp dễ lưu thông tại các đường cong, chạy tốc độ tối đa 450 km/h.
Tàu cao tốc có công nghệ động lực tập trung đã ứng dụng tại Pháp, Bỉ, Anh, Hà Lan, Hàn Quốc, Tây Ban Nha... Đoàn tàu chạy tốc độ tối đa tới 570 km/h, tuy nhiên, sức chuyên chở không cao, trung bình 2 chỗ/m, khó thêm hay bớt toa và hợp với bán kính đường cong lớn. Ưu điểm của công nghệ này là chi phí thấp hơn công nghệ phân tán.
|
Tàu shinkansen ở Nhật Bản với tốc độ trung bình 300km/h. Ảnh minh họa. |
Theo đại diện Tư vấn, do những ưu việt của hệ thống động lực phân tán nên bên cạnh một số nơi như Trung Quốc, Đài Loan, Ấn Độ đã lựa chọn, Đức, Pháp cũng đang có xu hướng chuyển sang công nghệ này.
Tại cuộc họp, GS Đỗ Đức Tuấn, ĐH Giao thông vận tải, nhận định, có ý kiến là cần phát triển tàu điện Hyperloop để đi tắt đón đầu song cách đó rất mạo hiểm, nhiều rủi ro, vì chưa nhiều nước áp dụng.
Ông Tuấn ủng hộ công nghệ động lực phân tán dù việc bảo dưỡng tốn kém hơn. Bởi ông cho rằng xu thế của nhiều nước đã sử dụng loại công nghệ này, Việt Nam nên đồng hành với họ. Ngoài ra, chủ trương của Nhà nước là ứng dụng công nghệ tiên tiến song không độc quyền.
Từng đến Đài Loan học hỏi kinh nghiệm, ông Hoàng Hà, Vụ trưởng Khoa học Công nghệ (Bộ Giao thông) cho hay, Đài Loan chọn loại tàu trước rồi mới làm đường. Họ cân nhắc nhiều trước khi chọn công nghệ của Nhật Bản. Ngoài việc tính toán chi phí xây dựng, họ còn tính các chi phí để đảm bảo vận hành tàu từ 30 đến 50 năm.
Theo Bộ trưởng Giao thông Nguyễn Văn Thể, do tuyến đường sắt tốc độ cao Bắc Nam dài 1.500 km, có 23 ga, không thể chọn vận tốc quá cao vì chạy đoạn ngắn tàu đã phải dừng. Giai đoạn đầu chỉ làm từng đoạn như Hà Nội - Vinh, Nha Trang - TP HCM, Huế - Quảng Ngãi thì phải có nhiều ga để khai thác hiệu quả dự án.
"Một nhiệm kỳ có lẽ Quốc hội chỉ dành cho 10 tỷ USD, nên 5 nhiệm kỳ trong 25 năm, chúng ta mới có đường sắt Bắc Nam toàn tuyến. Do đó tôi đề nghị phải chọn tốc độ để báo cáo cho chính xác, nghiên cứu kỹ vận tốc 250 hay 350 km/h", ông Thể nói.
Ngoài ra, ông Thể cho rằng, Việt Nam dân số đông, nhiều đồi núi, nhiều giao cắt nên đường sắt phải có rào chắn hoặc làm trên cao. Dự kiến khoảng 70% chiều dài đường sắt tốc độ cao sẽ nằm trên cầu cạn. Chúng ta có thể chọn tàu có công nghệ tải trọng phân bố để giảm tải trọng trục, là giảm chi phí xây dựng cầu cạn.
Nhìn tổng thể, Bộ trưởng Giao thông cho rằng "bây giờ nước mình làm đường sắt tốc độ cao là quá trễ" khi so sánh với các nước trong khu vực như Campuchia mới khánh thành đường sắt đi Thái Lan, Lào kết nối với Trung Quốc...
"Chúng tôi sẽ báo cáo dự án ra Quốc hội, không 5 nhiệm kỳ thì phải 7 nhiệm kỳ xây dựng đường sắt tốc độ cao. Ai cũng sợ kinh phí nhiều song chúng ta chia ra phân kỳ, tùy theo tình hình kinh tế đất nước làm từng phần để đạt mục tiêu. Tôi nghĩ rằng chúng ta sẽ thuyết phục được dư luận xã hội và các đại biểu Quốc hội", Bộ trưởng Thể khẳng định.
Ông Thể cũng nhận định, nếu có đường sắt tốc độ cao thì người dân sẽ không còn đi xe khách đường dài, vì xe khách rất nguy hiểm, tai nạn giao thông đường bộ nghiêm trọng. Từ Hà Nội, TP HCM, người dân sẽ đi tàu hỏa đến các tỉnh còn đi xa hơn 1.500 km sẽ đi máy bay. Giai đoạn đầu khai thác đường sắt tốc độ 200 km/h, 10 năm sau đó thay thế toa xe và chạy tốc độ cao hơn.
Theo báo cáo nghiên cứu khả thi giữa kỳ dự án đường sắt tốc độ cao Bắc Nam, tư vấn TEDI-TRICC-TEDIS đề xuất xây dựng tuyến đường sắt mới dài hơn 1.545 km, phân kỳ đầu tư các đoạn Hà Nội - Vinh dài 285 km; Vinh - Nha Trang 896 km; Nha Trang - TP HCM dài 364 km. Tổng vốn đầu tư toàn dự án dự kiến là 58, 710 tỷ USD, trong đó hai đoạn Hà Nội - Vinh và Nha Trang - TP HCM được đầu tư trước, phân kỳ trong 10 năm (2020-2030) với tổng vốn hơn 24 tỷ USD. Tuyến đường sắt tốc độ cao được xây dựng mới, khổ đường 1.435 mm, đường đôi, có 23 ga, 5 khu depot bảo dưỡng, sửa chữa tàu; trong đó 60% đi trên cầu đường bộ, 10% qua hầm, 30% đi trên mặt đất được rào chắn không giao cắt. Đoạn đi trên mặt đất nằm gần với tuyến đường bộ cao tốc. Hiện Bộ Giao thông đã cùng với Tư vấn làm việc với tất cả 20 tỉnh, thành phố về hướng tuyến. |