Theo phản ánh và hồ sơ thể hiện, suốt 5 năm qua, UBND TP Vũng Tàu vẫn đi theo “lối mòn” khi đưa ra nhiều lý do, lập luận cũ, chứng cứ mới có dấu hiệu ngụy tạo đã từng bị Tòa bác bỏ để “từ chối” thi hành án?
Những lập luận, chứng cứ bị tòa bác bỏ
Như đã phản ánh trong các bài viết trước, cũng như bản án phúc thẩm của TAND tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu (BR-VT), Bộ Tài nguyên và Môi trường (TN&MT) đã khẳng định, trường hợp của bà Trần Thị Hương (ngụ phường 3, TP Vũng Tàu, thuộc gia đình có công với cách mạng) đủ điều kiện bồi thường về đất, đồng thời đề nghị UBND tỉnh này chỉ đạo thực hiện đúng quy định pháp luật. Thế nhưng đáp lại, UBND TP Vũng Tàu vẫn cố tình “chống lệnh”, không thi hành bản án.
|
Hiện trạng khu đất bị thu hồi, trong đó có đất bà Hương đang yêu cầu thi hành án. |
Điều khiến bà Hương cũng như dư luận vô cùng bức xúc, đó là những lý do được UBND TP Vũng Tàu đưa ra để “từ chối” thi hành án theo bà Hương là “kệch cỡm”, bảo thủ và cứng nhắc?
Cụ thể, tại bản án sơ thẩm của TAND TP Vũng Tàu (ngày 29/01/2013) và phúc thẩm của TAND tỉnh BR-VT (ngày 20/6/2013) cho biết, quan điểm của UBND TP cùng các cơ quan ban ngành liên quan đều cho rằng: Hộ bà Hương chỉ được giao sử dụng ki ốt để kinh doanh mua bán, giải quyết khó khăn về đời sống. Đồng thời, khu đất trên có nguồn gốc do UBND Đặc khu Vũng Tàu - Côn Đảo giao cho UBND phường 3 quản lý và sử dụng làm bãi đậu xe.
Do đó, UBND phường 3 là chủ thể sử dụng đất, không phải với tư cách chính quyền cơ sở thực hiện chức năng, nhiệm vụ quản lý Nhà nước đối với đất đai. Vì vậy, các cơ quan ban ngành TP Vũng Tàu cho rằng đối tượng sử dụng đất và kê khai đăng ký phần đất ki ốt của bà Hương là UBND phường 3. Việc bà Hương có tên trong sổ mục kê ruộng đất, sổ đăng ký đất là không đúng trình tự, thủ tục và không có căn cứ pháp luật.
Đối lại với các luận điểm trên, bản án sơ thẩm và phúc thẩm đã nhận định, tại thời điểm năm 1991 là thời điểm Luật đất đai năm 1987 có hiệu lực. Luật đất đai năm 1987 không quy định người sử dụng đất phải nộp tiền sử dụng đất. Tuy nhiên, tại khoản 4 Điều 48 của Luật này quy định người sử dụng đất phải có nghĩa vụ đền bù thiệt hại thực tế cho người đang sử dụng đất bị thu hồi, bồi hoàn thành quả lao động và kết quả đầu tư trên đất theo quy định.
Theo đó, đất ki ốt giao cho bà Hương được thu hồi theo Quyết định số 416/QĐ-UBND ngày 16/5/1991 của UBND Đặc khu Vũng Tàu – Côn Đảo thu hồi của Tập đoàn Sản xuất nông nghiệp I đang sử dụng. “Nên số tiền bà Hương nộp bồi hoàn hoa màu chính là đã thực hiện nghĩa vụ của người sử dụng đất... Nên số tiền bà Hương nộp bồi hoàn hoa màu thời điểm đó đồng nghĩa với việc bà Hương nộp tiền sử dụng đất bây giờ. Vì thế bà Hương cũng phải được hưởng quyền lợi của người sử dụng đất theo quy định của pháp luật”, bản án sơ thẩm của TAND TP Vũng Tàu nêu.
|
Bản án phúc thẩm của TAND tỉnh BR-VT. |
|
Bản án khẳng định đất bà Hương đủ điều kiện đền bù về đất. |
Bản án sơ thẩm và phúc thẩm cũng cho biết, theo ý kiến của UBND TP Vũng Tàu cho rằng diện tích đất ki ốt của bà Hương do UBND phường 3 giao, chỉ giao ki ốt. Trong khi đó, UBND phường 3 là đơn vị được UBND Đặc khu Vũng Tàu – Côn Đảo giao thực hiện “thiết kế dự toán và cho phép xây dựng cụm ki ốt bãi đậu xe tại phường 3 TP Vũng Tàu”. Do đó, UBND phường 3 không có thẩm quyền giao đất, việc giao đất của đơn vị này cho bà Hương là không đúng thẩm quyền.
Theo nhận định của hai cấp Tòa, thực tế khi nhận đất để làm ki ốt, bà Hương đã nộp tiền sử dụng đất (như nêu trên). Bà Hương tự bỏ tiền xây dựng ki ốt và sử dụng như nhà ở ổn định hơn 20 năm không tranh chấp. Không những vậy, Tòa cũng cho rằng bà Hương sử dụng ki ốt trên cơ sở Nhà nước giao.
Cụ thể, UBND Đặc khu Vũng Tàu – Côn Đảo giao cho UBND phường 3, TP Vũng Tàu làm chủ đầu tư và tự lo kinh phí. Tuy nhiên, đơn vị này không có kinh phí nên giao lại cho bà Hương lo tiền san lấp, đền bù hoa màu, chi phí thiết kế và tự xây dựng ki ốt. Sau đó, UBND phường 3 đã ban hành Quyết định giao chính ki ốt của bà Hương xây dựng cho bà sử dụng.
Bên cạnh đó, Tòa cũng chỉ ra, UBND phường 3 không có ki ốt đã xây dựng để giao mà giao đất cho bà Hương tại ki ốt số 17 thể hiện rõ tại thông báo số 15 ngày 23/12/1991, nội dung căn cứ Quyết định số 73/QĐ-UBND về việc “giao lô” cho các cá nhân đóng tiền xây dựng ki ốt.
|
Bà Hương đăng ký đất và được các cấp chính quyền tỉnh BR-VT xác nhận |
Sau khi được giao ki ốt trên sử dụng, năm 1993, bà Hương đã đăng ký kê khai với UBND phường 3 tại Sổ đăng ký đất và năm 1994 được UBND TP Vũng Tàu xác nhận, năm 1995 được Ban Quản lý đất đai tỉnh BR-VT xác nhận một lần nữa.
Từ những nhận định và chứng cứ nêu trên, cả hai cấp Tòa đều đồng quan điểm, trường hợp bà Hương đủ điều kiện bồi thường về đất.
UBND TP Vũng Tàu cố tình đi theo “lối mòn”?
Bản án của Tòa đã tuyên rất rõ, tuy nhiên về phía chính quyền TP Vũng Tàu, khi Tòa đang thụ lý giải quyết sơ thẩm lần đầu vào ngày 21/5/2009 và đưa ra xét xử sơ thẩm vào ngày 6/12/2011, thì 3 ngày trước đó (tức ngày 3/12/2011), Giám đốc Văn phòng Đăng ký Quyền sử dụng đất TP lại ban hành Quyết định chỉnh lý tên chủ sử dụng đất từ bà Hương thành UBND phường 3. Động thái có dấu hiệu ngụy tạo chứng cứ này đã bị 2 cấp Tòa bác bỏ vì không phù hợp với thực tế và trái quy định của pháp luật.
Mặc dù việc điều chỉnh trên đã bị hai cấp Tòa “tuýt còi”, thế nhưng, theo bà Hương cho biết, UBND TP Vũng Tàu lại tiếp tục “thi gan”, đi theo “lối mòn” khi dựa vào những lập luận và lý do cũ để không thi hành án và cố tình chống lệnh.
Theo đó, ngày 04/5/2017, đơn vị này tiếp tục có văn bản số 2445 gửi Sở TN&MT và đề nghị Sở này xem xét, điều chỉnh tên chủ sử dụng đất trong bộ hồ sơ địa chính phường 3 lập năm 1993, trong đó có bà Hương thành “UBND phường 3” đăng ký sử dụng.
Tiếp theo, tại văn bản số 3607/UBND-TNMT ngày 23/6/2017 do UBND TP. Vũng Tàu gửi UBND tỉnh và Sở TN&MT tỉnh vẫn đưa ra lý do, trường hợp sử dụng đất của bà Hương thuộc trường hợp sử dụng đất của Nhà nước (do tên chủ sử dụng đã bị điều chỉnh sang UBND phường 3 như đã nêu), nên không đủ điều kiện bồi thường về đất.
|
Bà Hương bên tập hồ sơ trình bày với phóng viên. |
Như đã nêu, những luận điểm, chứng cứ do UBND TP Vũng Tàu đưa ra hoàn toàn không mới và đã từng bị hai cấp Tòa bác bỏ rất rõ ràng và thuyết phục.
Không chỉ vậy, ngày 23/01/2018, Bộ TN&MT cũng có văn bản số 365/BTNMT-TCQLĐĐ gửi UBND tỉnh BR-VT và Sở TN&MT tỉnh này cho biết, từ thực tế sử dụng đất và căn cứ quy định của pháp luật, bà Hương được bồi thường về đất.
Đến đây, tưởng chừng sau những văn bản trả lời và chỉ đạo, UBND TP Vũng Tàu sẽ phải nghiêm túc thực hiện, không còn bảo thủ, viện các lý do, thế nhưng đơn vị này tiếp tục có động thái “thi gan”, ra văn bản với lý luận “to” hơn cả bản án có hiệu lực để đẩy trách nhiệm và cố tình chống lệnh.