Theo tài liệu trong hồ sơ vụ án, bà N.T.H.M và ông N.V tự nguyên kết hôn năm 2010. Trong quá trình sống chung, bà M và ông V sinh được 2 con chung và tạo dựng được khối tài sản lớn gồm nhiều bất động sản, vàng, xe hơi, chứng khoán... Theo định giá của Hội đồng định giá, tổng tài sản chung của hai vợ chồng có giá trị hơn 42 tỷ đồng.
Đến năm 2022, cuộc sống của 2 vợ chồng nảy sinh nhiều mâu thuẫn, bà M và ông V quyết định sống ly thân. Đến năm 2023, bà M quyết định nộp đơn ly hôn ra TAND quận Ngũ Hành Sơn để làm thủ tục ly hôn.
Sau nhiều tháng thụ lý vụ án, ngày 25/9/2024, TAND quận Ngũ Hành Sơn đã xét xử vụ án “Tranh chấp ly hôn, yêu cầu chia tài sản chung và tranh chấp nuôi con” giữa bà M và ông V. Theo phán quyết của Tòa án, ông V được sở hữu 58% tài sản chung, bà M nhận 42%. Về con chung, ông V và bà M mỗi người nuôi một cháu.
Trước phán quyết trên của HĐXX, cả ông V và bà M đều không đồng ý và có đơn kháng cáo lên Tòa án cấp trên để xem xét, giải quyết.
Chia sẻ với phóng viên, bà M cho biết: "Trong suốt 14 năm chung sống, tôi đảm nhận 90-100% chi phí chăm lo gia đình, chu toàn việc phụng dưỡng hai bên nội ngoại, nuôi dạy hai con trai khôn lớn và tự lực xây dựng sự nghiệp riêng. Bên cạnh đó, tôi còn cung cấp cho tòa án hơn 22 tập sao kê tài khoản, hơn 10.000 giao dịch và hơn 1.500 trang bút lục, bao gồm lời khai từ nhân chứng, chứng minh đóng góp phần lớn về tài sản chung và đặc biệt hỗ trợ tài chính cho sự nghiệp của chồng trong nhiều năm qua.”
Theo bà M, trong quá trình tố tụng tại cấp sơ thẩm, bà M đã mất rất nhiều công sức để thu thập tài liệu để chứng minh quá trình đóng góp hình thành tài sản chung của hai vợ chồng. Tuy nhiên, tại phiên tòa sơ thẩm, HĐXX đã không xem xét tới các chứ cứ này.
Bà M cho biết thêm: “Công sức đóng góp hình thành nên các bất động sản của tôi được thể hiện rõ ràng qua hàng trăm giao dịch sao kê Ngân hàng đều bị Hội đồng xét xử loại bỏ (trong đó có nhiều tài sản tôi góp đến tỷ lệ từ 80% đến 100%), Hội đồng xét xử chỉ dựa vào lời khai chung chung, khoảng chừng của bị đơn cung cấp để định đoạt vụ án, xem xét tỉ lệ cho ông V hưởng 58% và tôi được hưởng 42%.”
Bà M cũng cho rằng, trong quá trình chờ Tòa án giải quyết vụ án, ông V đã có nhiều hành vi tẩu tán tài sản chung.
Cụ thể, theo giấy xác nhận ly thân ngày 25/05/2023 được xác lập giữa bà M và ông V, thì ông V chịu trách nhiệm giữ toàn bộ 12 cây vàng và “đóng băng” mọi tài sản khác như tiền tiết kiệm, tiền trong tài khoản ngân hàng, các bất động sản… để tránh việc tài sản chung sử dụng vào mục đích không đúng và việc phân chia sẽ phân định tại tòa án hoặc theo sự thỏa thuận riêng. Tuy nhiên, trong quá trình giải quyết vụ án, ông V đã giấu đi bản chính “Giấy xác nhận ly thân” và bán toàn bộ số vàng, tiền trong tài khoản chứng khoán và tiền trong tài khoản ngân hàng.
Cũng theo bà M, toàn bộ tài liệu thể hiện quá trình đóng góp tài sản chung của 2 vợ chồng đã được bà chuyển tới TAND thành phố Đà Nẵng. Bà M cho rằng, dựa vào công sức đóng góp của bà, thì bà phải được hưởng 60% tài sản chung của 2 vợ chồng.
Về phía ông V, trong đơn kháng cáo ông đề nghị được nuôi cả 2 con trai, đồng thời kiến nghị tòa xem xét được chia 70% tài sản chung. Ông cho rằng, bản án sơ thẩm chưa phản ánh hết công sức đóng góp của ông trong việc hình thành khối tài sản chung; ông có việc làm và thu nhập cao ổn định; có tài sản sinh lời trước khi kết hôn; số tiền tiết kiệm và vàng của 2 vợ chồng đã thống nhất khi ly thân là để thanh khoản các khoản nợ chung.
Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng đang xem xét, giải quyết vụ án |
Được biết, hiện nay, vụ án đang được TAND thành phố Đà Nẵng thụ lý giải quyết. Bà M rất hy vọng, HĐXX cấp phúc thẩm sẽ có phán quyết thật khách quan, công bằng để đảm bảo quyền lợi chính đáng của bà, cũng như tránh thiệt thòi cho phụ nữ và trẻ em - những người yếu thế trong các vụ án ly hôn.