Sản xuất, kinh doanh thực phẩm không bảo đảm an toàn cho sức khỏe, tính mạng con người là hành vi vi phạm pháp luật. Tổ chức, cá nhân thực hiện các hành vi vi phạm quy định an toàn thực phẩm có thể bị phạt tiền, phạt tù và buộc bồi thường thiệt hại.
Mặc dù, từ năm 2010 Nhà nước ta đã ban hành Luật An toàn thực phẩm cùng với các văn bản hướng dẫn thi hành, tuy nhiên tình trạng thực phẩm không an toàn cho sức khỏe, tính mạng con người vẫn ngày càng tràn lan khiến người dân hết sức lo ngại.
Có nhiều ý kiến cho rằng phải chăng nguyên nhân của thực trạng này là do chính sách pháp luật của nước ta chưa đủ sức răn đe?
|
Ảnh minh họa. |
Phạt tiền hoặc phạt tù và bồi thường thiệt hại
Bảo đảm an toàn thực phẩm là trách nhiệm của mọi tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh thực phẩm. Do vậy, mọi tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh thực phẩm phải tuân thủ quy định tại Luật An toàn thực phẩm và các văn bản hướng dẫn thi hành, trong đó có việc bảo đảm không thực hiện các hành vi bị cấm quy định tại Điều 5 như: Sử dụng nguyên liệu không thuộc loại dùng cho thực phẩm để chế biến thực phẩm; sử dụng nguyên liệu thực phẩm đã quá thời hạn sử dụng, không rõ nguồn gốc, xuất xứ hoặc không bảo đảm an toàn chế biến thực phẩm; thực phẩm chứa chất độc hại hoặc nhiễm chất độc, tác nhân gây ô nhiễm vượt quá giới hạn cho phép;…
Nếu tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh thực phẩm vi phạm pháp luật về an toàn thực phẩm thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý vi phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường và khắc phục hậu quả theo quy định của pháp luật (khoản 1 Điều 6 Luật An toàn thực phẩm).
Về xử lý vi phạm hành chính, tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh thực phẩm không bảo đảm an toàn cho sức khỏe, tính mạng con người có thể bị xử phạt vi phạm hành chính theo quy định tại Nghị định 178/2013/NĐ-CP ngày 14/11/2013 quy định xử phạt vi phạm hành chính về an toàn thực phẩm với mức phạt lên đến 3,5 lần tổng giá trị thực phẩm vi phạm.
Đồng thời, tổ chức, cá nhân vi phạm có thể bị đình chỉ hoạt động có thời hạn, tước quyền sử dụng giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện an toàn thực phẩm và buộc phải thực hiện các biện pháp khắc phục hậu quả như: buộc tiêu hủy tang vật vi phạm, chuyển đổi mục đích sử dụng, chịu các chi phí cho việc xử lý ngộ độc thực phẩm,…
Về truy cứu trách nhiệm hình sự, theo quy định tại Điều 244 Bộ luật Hình sự 1999 thì người nào có hành vi chế biến, cung cấp hoặc bán thực phẩm mà biết rõ là thực phẩm không bảo đảm tiêu chuẩn vệ sinh an toàn gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khoẻ của người tiêu dùng thì có thể bị phạt tù từ 01 năm đến 15 năm.
Ngoài ra, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5 triệu đồng đến 50 triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
Đáng lưu ý là Bộ luật Hình sự 2015, có hiệu lực vào 01/07 tới đây đã có những quy định cụ thể hơn về tội vi phạm quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm, đồng thời nâng mức phạt tù lên đến 20 năm, quy định thêm hình phạt chính là phạt tiền từ 50 triệu đồng đến 500 triệu đồng, nâng mức phạt tiền bổ sung từ 20 triệu đồng đến 100 triệu đồng nhằm chống lại nạn sản xuất, kinh doanh thực phẩm bẩn (Điều 317).
Về bồi thường dân sự, tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh thực phẩm bẩn gây thiệt hại cho người tiêu dùng thì buộc phải bồi thường theo quy định tại các Điều 604 và 605 Bộ luật Dân sự 2005 (Điều 584 và 584 Bộ luật Dân sự 2015, có hiệu lực từ 01/7/2016 tới đây).
Vì sao chế tài không hiệu quả?
Như đã phân tích ở trên thì hoạt động sản xuất, kinh doanh thực phẩm đã được điều chỉnh bởi Luật An toàn thực phẩm và các văn bản hướng dẫn thi hành; các hành vi vi phạm an toàn thực phẩm cũng đã có các quy định chế tài xử lý nhằm phục vụ công tác đấu tranh chống thực phẩm bẩn.
Tuy nhiên, việc xử lý hành vi vi phạm quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm trên thực tế chưa đạt được hiệu quả cao bởi những nhiều lý do.
Thứ nhất, người tiêu dùng không biết hoặc cam chịu nên đã không tố giác hành vi vi phạm. Thứ hai, việc chứng minh hành vi vi phạm quy định vệ sinh an toàn thực phẩm trên thực tế gặp nhiều khó khăn và mất nhiều thời gian, ví dụ: chứng minh ý chí chủ quan của người thực hiện hành vi có biết rõ thực phẩm không vệ sinh an toàn hay không (khó khăn này sẽ được giải quyết khi Bộ luật Hình sự 2015 có hiệu lực); chứng minh mẫu vi sinh vật, hóa chất gây hại;…
Thứ ba, các nguyên nhân chủ quan xuất phát từ các cán bộ, cơ quan chức năng như: sự vào cuộc của cơ quan có thẩm quyền; trình độ, lương tâm của người có thẩm quyền, sự hợp tác liên ngành;…
Như vậy, để bảo đảm thắng lợi trong “cuộc chiến thực phẩm bẩn” thì ngoài sự đầy đủ các quy định pháp luật điều chỉnh còn phải bảo đảm sự vào cuộc và kết hợp đấu tranh của mọi tổ chức, cá nhân trong xã hội.
Nếu bất kỳ hành vi vi phạm nào cũng bị xử lý nghiêm theo quy định của pháp luật thì có thể lạc quan tin tưởng rằng vấn nạn thực phẩm bẩn sẽ nhanh chóng bị loại bỏ.