Liên quan đến vụ việc gia đình liệt sự mất hàng chục năm trời đi đòi lại đất, PV Phapluatplus.vn đã có cuộc trao đổi với luật sư về vụ việc này.
Mất hàng chục năm trời đi đòi lại mảnh đất được chính quyền địa phương cấp cho gia đình mình từ năm 1984, với nhiều phiên tòa nối tiếp diễn ra.
Phán quyết cuối cùng cho một vụ án kiện tụng đất đai chưa ngã ngũ thì gia đình ông Nguyễn Đức Thành, trú tại phường Hà Tu, TP Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh lại phải tiếp túc với phiên phúc thẩm xét xử vụ khởi kiện quyết định hành chính của vị Chủ tịch TP Hạ Long liên quan đến sự việc.
Video ông Nguyễn Đức Thành nói về sự việc của mình trước phiên xét xử diễn ra vào ngày 27/5 sắp tới.
Bức xúc và mệt mỏi với quá trình đi tìm quyền lợi của mình, ông Thành đã gửi nhiều nội dung đơn thư đến nhiều cơ quan chức năng trong tỉnh, với mong muốn các cơ quan có thẩm quyền giải quyết vụ việc một cách công minh đam bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho mình.
Ông Thành cho rằng: “Có nhiều dấu hiệu không bình thường, không khách quan, vi phạm tố tụng trong quá trình xét xử vụ án hành chính này vì sự kéo dài thời hạn tố tụng, cụ thể: ngày 5/11/2015 tôi đã nộp đơn kháng cáo đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh xét xử lại vụ án. Ngày 3/3/2016 Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh mới có quyết định đưa vụ án ra xét xử.
|
Ông Nguyễn Đức Thành nói về cuộc hành trình 32 năm đi đòi lại mảnh đất được chính quyền địa phương cấp cho gia đình mình từ năm 1984. |
Liên quan đến những vấn đề pháp lý, cũng như những tình tiết liên quan đến vụ việc khởi kiện quyết định hành chính sẽ được Tòa án Nhân dân tỉnh Quảng Ninh đưa ra xét xử vào ngày 27/5 sắp tới.
Phóng viên Phapluatplus.vn đã có cuộc trao đổi với luật sư Phan Thị Hương Thủy-GĐ Công ty Luật TNHH Hoàng Long, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho ông Nguyễn Đức Thành, luật sư Thủy cho hay.
“Trên cơ sở nghiên cứu các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, thì có căn cứ để chấp nhận đơn khởi kiện của ông Thành vì Quyết định hành chính bị khởi kiện không hợp pháp về nội dung bởi bất cứ một quyết định hành chính nào được ban hành cũng phải tuân thủ các quy định về mặt nội dung”.
Quyết định hành chính số 474 ngày 16/3/2015 của Chủ tịch UBND thành phố Hạ Long đã giữ nguyên phần nội dung của văn bản số 366 ngày 7/8/2012 của Phòng Tài nguyên và Môi trường và văn bản số 1998 ngày 27/5/2014 của chính UBND thành phố Hạ Long cho rằng Giấy phép sử dụng đất công và xây dựng nhà ở do UBND thị xã Hòn Gai, Ban quản lý công trình công cộng thị xã Hòn Gai cấp ngày 3/4/1984.
Tuy là 1 trong các loại giấy tờ về quyền sử dụng đất quy định tại khoản 1, khoản 2 điều 50 Luật đất đai năm 2003, nhưng căn cứ nội dung ghi tại trang 3 của giấy này, trong thời hạn 06 tháng kể từ ngày được cấp giấy phép sử dụng đất công và xây dựng nhà ở nêu trên (ngày 6/4/1984), gia đình ông Thành không xây dựng nhà để ở và không sử dụng đất nên giấy phép này không còn giá trị.
|
Giấy phép sử dụng đất công và xây dựng nhà ở được chính quyền địa phương cấp cho gia đình ông Thành từ năm 1984. |
“Nội dung nêu trên của Quyết định 474 là trái pháp luật về đất đai của Nhà nước qua các thời kỳ. Cụ thể trái với Nghị định số 47/HĐCP ngày 15/3/1972 của Hội đồng Chính phủ về ban hành Điều lệ tạm thời về việc lựa chọn địa điểm công trình và quản lý đất xây dựng (đây là văn bản pháp luật có hiệu lực khi ban hành Giấy phép sử dụng đất công và xây dựng nhà ở vào năm 1984, thời điểm trước khi đạo luật về đất đai đầu tiên được ban hành vào năm 1987) và Luật đất đai năm 2003 (thời điểm ban hành văn bản số 366 và số 1998), năm 2013 (thời điểm ban hành Quyết định số 474).
Bởi vì Giấy phép sử dụng đất công và xây dựng nhà ở cấp năm 1984 cho ông Thành vừa là quyết định cấp đất công để xây dựng nhà ở vừa là giấy phép xây dựng. Điều này thể hiện ở trên tài liệu này cụ thể như sau:
Nội dung thứ nhất ở mặt phía trong có tiêu đề “Giấy phép sử dụng đất công và xây dựng nhà ở” ghi ngày 3/4/1984 có con dấu của hai cơ quan có thẩm quyền là UBND thị xã Hòn Gai và Ban công nghiệp của thị xã Hòn Gai thể hiện việc cấp đất cho ông Thành theo tiêu chuẩn gia đình chính sách là theo phân cấp của UBND tỉnh Quảng Ninh cấp 240m2 đất công tại Dốc Khế, thị trấn Hà Tu phù hợp với điều 18 và điều 19 Nghị định 47 năm 1972.
|
Giấy xác nhận về trình tự cấp đất cho gia đình ông Nguyễn Đức Thành của nguyên cán bộ Công trình công cộng thị xã Hòn Gai. |
Việc cấp đất là theo phân cấp số 328/QĐ –UB ngày 18/7/1977 của UBND tỉnh Quảng Ninh-là cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp đất để sử dụng vào việc xây dựng nhà ở, Nghị quyết ngày 29/6/1977 của Hội đồng nhân dân khóa X về việc quản lý sử dụng đất công và xây dựng nhà ở theo đơn đề nghị của ông Thành.
Ngày giao đất là ngày 3/4/1984 do ông Vũ Đình Lân –Phó chủ tịch UBND thị xã Hòn Gai với ông Trịnh Kiểm –đại diện Ban công nghiệp của thị xã Hòn Gai ký. Ngoài ra còn có chữ ký của bà Nguyễn Thị Liền –cán bộ của Ban công nghiệp thị xã người trực tiếp lập hồ sơ nghiên cứu về đo đất trên thực địa.
Trong phần này có sơ đồ thửa đất và vị trí thửa đất với các tứ cận, tọa độ, mốc cao, địa giới rõ ràng phù hợp với quy định tại điều 9 Nghị định số 47 chính vì vậy đã xác định vị trí thửa đất thuộc thửa 31 và một phần thửa 54 (cụ thể: 218,1m2 thuộc thửa 31 và 21,9m2 thuộc thửa 54), tờ số 53 bản đồ địa chính lập năm 2000 tọa lạc tại tổ 11, khu 5 phường Hà Tu, thành phố Hạ Long) do Trung tâm tài nguyên và môi trường thuộc Sở địa chính của tỉnh Quảng Ninh đo vẽ.
|
Luật sư Phan Thị Hương Thủy-GĐ Công ty Luật TNHH Hoàng Long nói về sự việc. |
Nếu trong sơ đồ không thể hiện cụ thể tọa độ, mốc giới, địa giới thì không thể xác định được vị trí thửa đất hiện nay. Toàn bộ diện tích 240m2 của ông Thành đã bị các hàng xóm (là bà Nguyễn Thị Lương chiếm 136,2m2 và bà Nguyễn Thị Tuyên chiếm 103,8m2 vào năm 2002) để xây dựng nhà kiên cố trái phép như hiện nay”, luật sư Thủy phân tích.
Về giá trị pháp lý nội dung này thể hiện là 1 trong các loại giấy tờ về sử dụng đất trước ngày 15/10/1993 theo quy định của điểm a khoản 1 điều 50 Luật đất đai năm 2003 và cũng là điểm a khoản 1 điều 100 Luật đất đai năm 2013. Theo quy định tại điều 23 của Nghị định 47 thì chỉ có UBND tỉnh Quảng Ninh mới có thẩm quyền thu hồi đất của ông Thành.
Theo quy định tại điểm a khoản 2 điều 66 Luật đất đai năm 2013 thì việc thu hồi đất của hộ gia đình, cá nhân thuộc thẩm quyền của UBND thành phố Hạ Long.
Cho đến nay chưa hề có cơ quan nhà nước có thẩm quyền thu hồi giấy phép sử dụng đất công và xây dựng nhà ở năm 1984 và cũng không có bất cứ biên bản nào của UBND phường Hà Tu xác định ông Thành có hành vi vi phạm những điều ghi trong giấy này nên việc thu hồi đất (nếu có) cũng không có căn cứ để thu hồi.
Nội dung thứ hai ở mặt bên ngoài có tiêu đề “ Giấy phép xây dựng” mang số 257 ngày 6/4/1984 có ghi: Họ và tên: Nguyễn Đức Thành, khu Dốc Khế, thị trấn Hà Tu. Bản chất của nội dung này là giấy phép xây dựng đối với diện tích 240m2.
Theo quy định tại điểm a điều 21 của Nghị định 47 thì “sáu tháng sau khi được cấp giấy phép dùng đất mà đất chưa dùng để xây dựng thì người có đất không có quyền sử dụng nữa ...sau một năm muốn dùng đất đó để xây dựng thì phải xin phép lại”.
Ngoài tiêu chí không hợp pháp về nội dung (cụ thể trái Luật đất đai năm 2013, Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15//5/2014 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật đất đai), luật sư Phan Thị Hương Thủy còn cho rằng Quyết định số 474 của Chủ tịch UBND thành phố Hạ Long-bản chất là quyết định giải quyết đơn khiếu nại của ông Thành (lần đầu) đối với văn bản số 1998/UBND ngày 27/5/2014 của UBND thành phố Hạ Long, còn không hợp pháp về trình tự, thủ tục giải quyết khiếu nại theo quy định của Luật khiếu nại ngày 11/11/2011 của Quốc hội, Nghị định số 75/2012/NĐ-CP ngày 03/10/2012 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật khiếu nại, Thông tư số 07/2013/TT-TTCP ngày 31/10/2013 của Thanh tra Chính phủ quy định quy trình giải quyết khiếu nại hành chính. Quy định này chỉ liên quan đến việc xây dựng chứ không thể hiểu như quyết định số 474 (cũng như nội dung công văn 366 và văn bản 1998) là sau 06 tháng kể từ ngày 6/4/1098 nếu ông Thành không xây dựng nhà ở thì giấy này không có giá trị như là giấy tờ về sử dụng đất theo quy định của điểm a khoản 1 điều 50 Luật đất đai năm 2003 và cũng là điểm a khoản 1 điều 100 Luật đất đai năm 2013. |
Phapluatplus.vn sẽ tiếp tục thông tin về sự việc.