Trải qua hơn bốn nghìn năm lịch sử dựng nước và giữ nước, Việt Nam đã sản sinh ra nhiều vị tướng tài ba được cả thế giới ghi nhận. Mỗi triều đại lịch sử, dân tộc ta đều tự hào vì có được các danh tướng đủ tài đủ đức để lãnh đạo nhân dân đánh bại hầu hết các thế lực ngoại xâm, bảo về nền độc lập nước nhà.
Tin nên đọc
Những năm Dậu ghi dấu mốc lịch sử vẻ vang dân tộc Việt Nam
Những điều kiêng kỵ đầu năm mới
"Xâm nhập" chợ cá ông Công, ông Táo lớn nhất miền Bắc
Ai làm nên hương khói ngày xuân?
Nhân dịp năm mới Đinh Dậu 2017, chúng ta cùng nhìn lại một thời khắc oai hùng làm nên lịch sử của những vị tướng tài ba đất Việt tuổi Dậu.
Thái Thuận (Tân Dậu 1441…?)
Nhân vật đầu tiên được nhắc đến phải là Thái Thuận, ông là nhà thơ, danh sĩ dưới thời Lê sơ, có biệt hiệu là Lã Đường. Thái Thuận sinh ra trong một gia đình bình dân ở làng Đoài, tổng Liễu Lâm, phủ Siêu Loại, thừa tuyên Kinh Bắc (nay thuộc xã Song Liễu, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh).
Nhiệt tình, đạo cao đức trọng, lại nổi tiếng văn chương, ông là thi sĩ xuất chúng của làng thơ Việt Nam đương thời và trở thành 1 trong 28 thành viên của Hội thơ Tao Đàn trứ danh do vua Lê Thánh Tông sáng lập.
Sinh thời, ông sáng tác hàng nghìn bài thơ, nhưng vì không có ý thức lưu truyền nên thơ ông bị thất lạc nhiều. Hiện chỉ còn 264 bài in trong tập “Lã đường di cảo”.
Đặng Huy Trứ (Ất Dậu 1825 – 1874)
|
Đặng Huy Trứ, tự Hoàng Trung, hiệu Võng Tân, Tỉnh Trai, tục gọi là Bố Trứ - Bố Đặng (do ông từng làm Bố chính), pháp danh Đức Hải (thuở thiếu thời ông từng được đem quy y tại chùa Từ Hiếu), quê làng Bát Vọng, sau sang ngụ ở làng Thanh Lương - nay thuộc xã Hương Xuân, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên-Huế. |
Đặng Huy Trứ là một nhà cải cách Việt Nam thời cận đại, đồng thời ông là ông tổ nghề nhiếp ảnh và là người đầu tiên đưa kỹ nghệ đóng tàu phương Tây du nhập vào Việt Nam.
Ông quê ở Thừa Thiên Huế, từ bé đã nổi tiếng thông minh, đĩnh ngộ. Sinh thời, Đặng Huy Trứ làm quan đời vua Tự Đức, từng đi xứ các nước Trung Quốc, Triều Tiên, Xiêm La. Sự nghiệp quan trường của ông đều nhằm múc đích canh tân đất nước.
Nguyễn Trung Nguyệt (Kỷ Dậu 1909 – 1976)
|
Bảo Lương Nguyễn Trung Nguyệt. |
Bà sinh ra tại Mỹ Tho, lớn lên tại Rạch Giá, là một nữ sĩ cách mạng gan dạ, bà từng vượt biên sang Trung Quốc để dự lớp học chính trị đặc biệt do Nguyễn Ái Quốc đào tạo.
Bà trở thành một trong những hội viên đầu tiên của Việt Nam Thanh niên cách mạng Đồng chí hội. Sau này, cũng chính bà là những người đặt những viên gạch đầu tiên xây dựng Hội Phụ nữ giải phóng ở Nam bộ.
Giàu khiếu văn chương, sớm tiếp cận Hán văn và chữ quốc ngữ nên từ nhỏ bà đã xướng họa thơ cùng cha lúc nông nhàn. Sự nghiệp thơ văn đồ sộ gồm nhiều bài chính luận và hơn 3.000 bài thơ đậm tính chiến đấu.
Đàm Quang Trung (Tân Dậu 1921- 1995)
|
Ông Đàm Quang Trung từng là một chính khách và từng giữ chức Phó Chủ tịch Hội đồng Nhà nước nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, kiêm Chủ tịch Hội đồng Dân tộc từ 1987 đến 1992. |
Ông là một vị tướng tài danh của Quân đội nhân dân Việt Nam, ông tên thật là Đàm Ngọc Lưu, sinh ngày 12/9/1921 tại bản Nà Nghiềng, Sóc Hà, Hà Quảng, Cao Bằng.
Ông tham gia hoạt động cách mạng từ rất sớm (1937) và gia nhập Đảng cộng sản Đông Dương từ tháng 2/1939. Năm 1941 ông được Bác Hồ cử đi học ở trường Hoàng Phố (Trung Quốc) cùng các đồng chí Hoàng Văn Thái, Vũ Lập, Hoàng Minh Thảo, Nam Long…
Tháng 7/1944, ông chỉ huy Đội vệ binh bảo vệ Trung ương Đảng và Lãnh tụ Hồ Chí Minh căn cứ Tân Trào… Năm 1953 – 1954, ông trên cương vị Sư đoàn phó Sư đoàn 312 đã chỉ huy đơn vị giúp các bộ tộc Lào đánh nhiều trận, giải phóng Thượng Lào.
Với những thành tích to lớn trong suốt quá trình công tác, ông được Nhà nước phong quân hàm Thiếu tướng năm 1974, Trung tướng năm 1980, Thượng tướng năm 1984 cùng nhiều huân chương khác.