Sau tháng 10/2016 khi quyết định của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) có hiệu lực thì đồng nhân dân tệ (NDT) của Trung Quốc chính thức có tên trong giỏ tiền tệ dự trữ quốc tế, còn được gọi là Quyền rút vốn đặc biệt (SDR).
Với quyết định này, NDT sẽ chính danh được “ngồi chung mâm” cùng với 4 đồng tiền lớn là USD, Euro, bảng Anh và Yên Nhật.
Theo IMF, NDT sẽ chiếm tỷ trọng 10,92% trong SDR, so với tỷ trọng của USD là 41,73%, euro 30,93%, yên Nhật 8,33% và bảng Anh 8,09%.
Sự kiện này không chỉ tác động đối với tài chính toàn cầu mà còn ảnh hưởng nhất định đến Việt Nam. Bởi các hợp đồng xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp Việt với Trung Quốc (TQ) lâu nay chủ yếu được quy đổi theo USD.
|
Đồng nhân dân tệ sẽ có tên trong SDR sau tháng 10/2016. (Ảnh minh họa) |
Việc NDT gia nhập SDR có thể tác động đến tâm lý của doanh nghiệp trong việc lựa chọn tiền tệ thanh toán. Hiện thanh toán bằng NDT mới chỉ chiếm 2-4% tổng giá trị thương mại của Việt Nam trong khi quy mô thương mại giữa hai nước vào khoảng 60-65 tỷ USD/năm và còn tiếp tục gia tăng.
Vì vậy, sắp tới có thể doanh nghiệp TQ sẽ đề xuất thanh toán bằng NDT nhiều hơn, nguyên vật liệu, máy móc thiết bị nhập từ TQ có thể tăng giá, tất yếu đẩy giá thành và giá bán hàng hóa của Việt Nam tăng theo.
Thâm hụt thương mại hai nước vốn đã lớn sẽ càng lớn hơn. Vì vậy, điều quan trọng là các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu với thị trường TQ cần phải tính toán để kiểm soát rủi ro của tỷ giá NDT. Đồng thời, Việt Nam cũng cần phải có biện pháp cân bằng thương mại với TQ.
Hiện nay đồng NDT vẫn đang được định giá cao, nên nếu TQ giảm dần sự can thiệp và để thị trường quyết định trước mắt đồng NDT sẽ chịu áp lực giảm. Nhưng xét về dài hạn, khi đồng NDT tăng cường tính chuyển đổi và trở thành đồng tiền được sử dụng rộng rãi trong thanh toán cũng như trong dự trữ thì cầu NDT sẽ tăng lên và đồng NDT sẽ trở lại tăng giá.
Đối với Việt Nam, trong ngắn hạn nếu đồng NDT giảm giá sẽ ảnh hưởng đến cán cân thương mại của Việt Nam, nguy cơ nhập siêu sẽ càng nặng nề hơn. Ngược lại, trong trung và dài hạn, nếu đồng NDT lên giá, gánh nặng nợ của Việt Nam tính bằng đồng NDT sẽ là rất lớn.
Mặt khác, khi NDT mạnh lên thì VND sẽ yếu đi, nếu như tỷ giá VND không được điều chỉnh phù hợp sẽ gây áp lực lên nguồn cung ngoại hối trong nước, hoạt động xuất khẩu cũng sẽ kém đi.
Một vấn đề quan trọng liên quan đến Việt Nam về lâu dài là, trước đây tỷ giá của đồng nhân tệ và đô la Mỹ ổn định nhờ sự can thiệp của ngân hàng trung ương TQ, do đó, tới đây, nếu họ ít can thiệp thì sự biến động sẽ nhiều hơn. Theo đó, việc này sẽ tạo sức ép buộc Việt Nam phải linh hoạt hơn trong điều hành tỷ giá.
Đây cũng là một xu hướng chung vì không thể cố định tỷ giá mãi mà phải để tỷ giá biến động theo thị trường. Nếu tỷ giá giữa nhân dân tệ và đô la Mỹ biến động, trong khi tiền đồng Việt Nam neo chặt với đô la Mỹ thì việc này sẽ khiến Việt Nam bị ảnh hưởng vì thương mại giữa Việt Nam và Trung Quốc rất lớn.
Trao đổi với Phapluatplus về vấn đề này, Chuyên gia kinh tế Tiến sĩ Nguyễn Minh Phong nhận định: “Từ nay đến tháng 10/2016, TQ sẽ tiếp tục phá giá. Mức phá giá bao nhiêu rất khó dự đoán, có thể là 3% hoặc ít hơn. Khi đồng NDT bị phá giá thì chúng ta sẽ bị bất lợi trong xuất khẩu hàng hóa sang Trung Quốc, đồng thời sẽ khuyến khích nhập khẩu hàng từ Trung Quốc về Việt Nam, từ đó nhập siêu sẽ tăng vào tạo áp lực nhất định lên tỷ giá, buộc ngân hàng nhà nước có thể phải điều chỉnh tỷ giá VNĐ/USD.
Vị chuyên gia này cũng nhấn mạnh: “Khi TQ linh hoạt hơn trong chính sách tỷ giá, không có lý do gì Việt Nam không linh hoạt hơn trong chính sách tỷ giá của mình. Vậy nên ngân hàng nhà nước cần điều chỉnh tỷ giá thường xuyên hơn phù hợp với điều kiện thị trường và cần công khai thông tin về chính sách ngoại hối của Ngân hàng Nhà nước hơn là những cam kết cứng nhắc nhưng không thực tế, để củng cố và giữ vững niềm tin cho thị trường, cho người dân và cho giới đầu tư.