![]() |
| Nhà thơ. Đại tá Quang Hoài. |
“Ta nhủ lòng ta mỗi ngày” là câu thơ trong bài thơ “Miền Hoài Phương” của nhà thơ Quang Hoài (Nguyễn Quang Hoài). Ở tập thơ “Trước hoàng hôn”, Nxb. Hội Nhà văn quý 3 năm 2025 của ông, những bài thơ suy tư về Tổ tiên, gia đình, con cháu được đặt ở đầu tập. Điều này nói lên gì? “Mỗi ngày tôi lại một tôi/ Một miền tôi với một người tôi yêu” (Mỗi ngày tôi lại một tôi) . Câu thơ chiêm nghiệm, lắng lại bản thể.
“Trước hoàng hôn” gồm thơ và lời bình; về thơ gồm 72 bài, phần “Cảm nhận văn chương” có 6 bài và phần “Tác phẩm và dư luận” có 5 bài viết về thơ ông. Theo Quang Hoài, số bài này ông chọn trong nhiều bài viết của các nhà văn nhà thơ về tập thơ tuyển chọn của mình.
Nói như nhà thơ Nguyễn Quang Hưng, Quang Hoài là người lạc quan đến quên tuổi. Không chỉ thế, ông lạc quan quên cả mình đang mang trọng bệnh. Năm 2024, ông cho ra mắt tập “Thơ Quang Hoài tuyển chọn”; năm 2025 ông xuất bản cặp “song sinh” ấn phẩm gồm “Trước hoàng hôn” và “Mỗi ngày tôi lại một tôi”. Như vậy, gia tài văn học của Quang Hoài đã có tới 20 tác phẩm in riêng, 70 tác phẩm in chung; ngoài ra còn 54 tác phẩm ông tham gia biên tập tuyển chọn, chưa tính một số tác phẩm viết bằng tiếng Trung và tổ chức bản thảo cho nhiều tác giả xuất bản các tác phẩm văn học.
![]() |
| Tác phẩm "Trước hoàng hôn" của Nhà thơ Quang Hoài. |
Quang Hoài hồn hậu, dấn thân, dấn nghiệp. Thơ ông vì thế cũng là những cung bậc cảm xúc khi trải người, trải đời. “Cõi trần chưa sạch nợ đời/ dễ gì nhắm mắt buông rời thế gian?” (Mai rời cõi tạm). Điều này lý giải vì sao, ở tuổi bát thập, mang trong mình bạo bệnh, nhà thơ Quang Hoài vẫn viết. Bài thơ “Mai rời cõi tạm” ông viết năm 2023, trong những ngày đang điều trị ung thư tại Quân y viện 108.
Không gian, thời gian nghệ thuật từ họ hàng, gia đình, người vợ, cháu chắt... đều trở thành biểu tượng trong tập thơ của Quang Hoài. Ông cảm từ ngũ hành, âm dương, càn khôn trong trời đất để nhận ra: “Ta nhủ lòng ta mỗi ngày/ Càng sống đời càng đầy đặn yêu thương”.
“Có một miền như thế/ Miền Hoài Phương/ Cùng miền nước, miền đất/ Cùng miền mây, miền trời/ Giữa biển đời dong khơi” (Miền Hoài Phương); “Làm người đâu có dễ/ Trước sáng - tối, dữ - hiền/ Quang Sơn là Núi Sáng/ Có sáng cho Tổ tiên” (Có sáng cho Tổ tiên). Vợ ông, nhà giáo Hạ Thị Phương trở thành “miền cảm xúc”; cháu nội ông, Nguyễn Quang Sơn gợi cho ông thi hứng. Có thể nhận ra, Quang Hoài là người theo “chủ nghĩa gia đình” nguyên thuỷ. Ông viết về bố, về mẹ, về vợ và cháu đích tôn với tất cả tấm lòng biết ơn, gửi gắm hy vọng.
Có thể thấy, Quang Hoài là người chung thuỷ với lý tưởng sống của mình, từ lý tưởng mà ông phấn đấu từ người lính đến Đại tá quân đội, đến nhân nghĩa trong cuộc đời và bình yên trong ngôi nhà mình. Để làm được điều đó, trước hết ông nhận ra: “Khi nào ta thật là ta/ Thì cây thật cội thì hoa thật hồn/ Thì chim thật hót lời khôn/ Thì bướm thật thả dập dờn cánh bay/ Thì người thật dang vòng tay/ Ôm ta thật chặt trước bầy sói lang” (Một khi và khi nào).
Quang Hoài là nhà thơ lắm ưu tư, suy tư. Hay nói cách khác, tâm hồn ông biết rung lên trước mỹ cảm vô thường. Có thể đó là trước một “giọt nắng” ông thấy “oan uổng”, một li rượu, một tiếng hót của con chim sáo, hay dòng sông chảy trước mặt và tiếng ngỗng trời... thoáng qua, không kéo dài, không thể nắm bắt được, nhưng vào thơ Quang Hoài đều có vẻ đẹp của chuyển động, phản ánh quy luật tự nhiên của vô thường.
“Chim vẫy cánh khó bay/ là khi chim xa đất/ khi chim xa trời nhất/ là chim bay nhịp nhàng” (Suy nghĩ lan man); “Núi đứng một mình/ không có núi đứng cạnh/ núi sao biết được thấp cao”; “Người sống một mình/ không có người sống cạnh/ người sao biết được tình người?” (Cỏ trường sinh); “Giông trong ta/ bão trong ta/ Từ trong mù mịt/ nhìn ra mịt mù” (Trong cõi mê ngu).
![]() |
| Tác giả Quang Hoài nâng niu "đứa con tinh thần" của mình. |
Từ quan sát tự nhiên, soi chiếu bản thể, ông nhận ra quy luật xã hội. Về triết lý Phật giáo, đó là sinh - trụ - hoại - diệt; nhấn mạnh bản chất vô thường, thay đổi và không có gì tồn tại vĩnh cửu. Từ nhận thức “Đường về đất Phật xa vời/ Chân tâm Phật ở giữa đời cùng ta!” (Lại giấc người), thơ Quang Hoài như tiếng kinh thỉnh giác ngộ.
Trở lại với câu thơ “Ta nhủ lòng ta mỗi ngày”, đấy là sự giác ngộ. Trong triết lý Phật giáo, giác ngộ là sự thức tỉnh hoàn toàn khỏi vô minh và vọng tưởng, là thấu suốt chân lý tuyệt đối của vạn pháp, nhận ra bản chất vô thường, khổ đau và vô ngã của cuộc sống, và đạt được giải thoát khỏi khổ đau luân hồi. Phải kiên trì tu tập, quán chiếu, chuyển hóa nội tâm để đạt đến trí tuệ và sự tự tại. Với con người đã sống kỹ với đời như Quang Hoài, ông hiểu hết, nhưng để cho tâm tĩnh, lắng nghe được bản thể thì phải “tự nhủ” mỗi ngày.
“Ta nhìn căng đôi mắt / Không dò nổi lòng người”, (Con mắt sau lưng). Đọc hai câu thơ này của Quang Hoài, những ai yêu văn học lãng mạn Pháp sẽ nhớ Guy đơ Mô-pa-xăng (1850-1893). Ông từng nói: Biển đã rộng mênh mông nhưng trời còn mênh mông hơn, trời đã mênh mông nhưng thấm gì so với vô biên vộ tận. Đúng thế, không đâu nhiều ánh sáng và bóng tối bằng lòng người.
Quang Hoài từng trăn trở: “Ôi! Nhà văn...nhà văn / anh cứ viết và viết / anh viết gì và viết cho ai”, (Nắng oan uổng). Còn biết phân vân là còn có trách nhiệm xã hội của một ngòi bút. Bởi văn chương, nhất là thi ca dù chuyên chở, giải bày hay biến ảo đều là phần khí thiêng vi diệu nhất trong cõi nhân sinh. Nhà thơ là những người được “ủy thác”.
Quang Hoài là người sống đơn sơ, không cầu kỳ, không phô trương hay xa hoa, tôn trọng những giá trị thực tế và bản thân. Điều đó thể hiện sự khiêm tốn, chân thành, giúp ông bình yên, giữ được giá trị cốt lõi. Trong system cảm xúc, ông khá nặng lòng với thơ.
Quang Hoài trải lòng: “Tôi yêu thơ. Bốn hai năm trong quân đội có làm thơ nhưng “lạc ra ngoài đội hình” như nhà thơ Trần Đăng Khoa nhận xét. Có lẽ tôi chỉ viết được những gì lắng thành ký ức, đọng lại trong tâm hồn nên đến muộn chăng?... Viết thơ trước hết là cho mình, sau đó mới cho người, được người chia sẻ, dù chỉ một cũng là hạnh phúc”.
Kể ra có “muộn” thật, bởi tập thơ đầu tay “Nguyện cầu” in năm 2002, khi đã 57 tuổi. Tuy nhiên, thơ không có khái niệm thời gian “sớm” hay “muộn”; không có “mới” hay “cũ”, vấn đề căn cốt là thơ hay, hay thơ dở. Thi phẩm hay khi đã công bố sẽ có “đời sống riêng” ngoài ý muốn tác giả.
![]() |
| Nhà thơ Quang Hoài tặng sách cho tác giả - Nhà thơ Ngô Đức Hành. |
Trong tập thơ “Trước hoàng hôn”, ông dành cho thơ “Trắng bao đêm”, “Nắng oan uổng”, “Tỉnh táo”, “Đợi một vầng thơ”, “Thi sĩ 1”, “Thi sĩ 2”, “Mắt thơ”, “Cứu thơ thoát hiểm đận này”, “Nỗi đau con chữ”, “Một tiếng thơ”, “Giấc chói loà”, “Chết trong con chữ” (chùm 3 bài nghĩ vụn về thơ), “Lửa trong chữ”. 13/72 bài, chiếm hơn 18%.
“Văn chương nợ bạc đầu/ Tai ương hay quả báo?/ Nếu ta không tỉnh táo/ Thơ đưa ta về đâu?” (Tỉnh táo). “Văn chương ngọn núi ta từng ước/ Vượt dốc một lần dấn bước lên/ Lưỡng lự “thôi sao” Khuê Văn Các/ Trở về thức đợi trắng bao đêm!” (Trắng bao đêm). Mới biết vì sao Quang Hoài thích hai câu “Giản dị là cảnh giới tận cùng của văn chương” của Lưu Đại Khôi và “Thơ hay nhất là thơ bình dị” của Lục Du.
Trung thành với sự giản dị, cũng là một phẩm chất người của Quang Hoài. Vì thế thơ ông là tiếng nói chân thành, lay thức giá trị căn cốt là sự chân thành. “Nghiệp văn vương níu chẳng rời ta/ bao tháng năm trôi nụ chớm hoa/ mấy xuân nữa vọng mùa chín quả/ mà hão danh mơ giấc chói loà” (Giấc chói loà).
Tự dặn mình như vậy, nhưng Quang Hoài nhận ra vẻ đẹp của thơ, sứ mệnh của thơ đối với cuộc đời. Quan trong hơn, ông luôn trăn trở với đất nước, quê hương, xa xót trước các thân phận không may thể hiện trong tác phẩm. Trong tập thơ “Trước hoàng hôn”, đó là “Mắt Sa Vỹ”, “Trong siêu bão kinh hoàng”, “Trước Cửu Long giang”...
“Ôi, đất trời mênh mang/ sao sinh ra con người/ lại cho yêu, cho ghét/ lại cho khóc, cho cười?!”. Nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo từng nói, khi còn biết ngạc nhiên nhà thơ còn làm thơ, con người còn yêu thơ. Yêu, ghét trong xã hội còn khúc xạ qua tâm hồn ông. Quan trọng hơn, Quang Hoài còn biết ngạc nhiên, nên chắc chắn ông vẫn dấn thân tìm cho ra câu trả lời về yêu và ghét.