Hàng loạt vi phạm trong quá trình điều tra, có liên quan đến sinh mệnh chính trị của 5 con người đã được “chỉ mặt đặt tên” ngay tại phiên tòa.
Tin nên đọc
Ba mẹ con bị kết án oan đòi bồi thường 18 tỷ
Hai vợ chồng doanh nhân được bồi thường 1,4 tỷ đồng sau 10 năm chịu án oan
Sẽ kiểm điểm 12 cán bộ sai phạm trong vụ án oan Huỳnh Văn Nén
Giết bố xong rồi ra ngắm trăng - tình tiết vô lý giải mã vụ án oan
Thế nhưng, điều khiến công luận hết sức khó hiểu và ngỡ ngàng là, vị đại diện viện kiểm sát giữ quyền công tố lại cho rằng chỉ cần “rút kinh nghiệm”...
Phải chăng, chính cách thực thi pháp luật không cần “đến nơi đến chốn”, không làm sáng tỏ sự thật của vụ án là nguyên nhân của hàng loạt án oan, khiến cho người bị kết án khó lòng tâm phục, khẩu phục.
|
Các bị cáo tại phiên tòa. |
Hồ sơ sai lệnh nghiêm trọng
Một trong những sai phạm nghiêm trọng, thậm chí “ngớ ngẩn” mà các luật sư nêu ra, thể hiện ở biên bản giám sát đối chất ngày 25/5/2017 tại Công an tỉnh Vĩnh Phúc, thành phần gồm 6 người tham gia, trong đó có Luật sư Lâm Quang Ngọc (VP Luật sư Hùng Phúc, Đoàn Luật sư tỉnh Vĩnh Phúc) có vai trò bào chữa cho các bị cáo.
Tuy nhiên, sau đó, tại Bút lục (BL 1529) hồ sơ lại thể hiện biên bản có 9 người ký. Điều này, cho thấy có dấu hiệu rõ ràng của việc vi phạm tố tụng. Ngoài ra, thành phần trong biên bản giám sát nói trên có kiểm sát viên - đại diện cho viện kiểm sát.
Nhưng người này lại chính là vợ của ông Nguyễn Văn Nhâm - người giữ quyền công tố trong phiên tòa phúc thẩm vừa qua. Việc này đã ngay lập tức làm nóng phiên tòa. Nhiều luật sư, người dân đặt câu hỏi về tính khách quan, công tâm trong vụ án liệu có được đảm bảo?
Do đó, các luật sư đề nghị thay kiểm sát viên giữ quyền công tố, đồng thời khởi tố vụ án điều tra việc làm sai lệch hồ sơ. Tuy nhiên, tranh tụng về vấn đề trên, vị đại diện VKS lại cho rằng, nếu khởi tố vụ án thì vô hình, luật sư Ngọc cũng sẽ là bị can khiến cả phiên tòa cười ồ ngạc nhiên.
Đồng thời, ông Nhâm cũng cho rằng việc “có thêm” thêm chữ ký trong hồ sơ là do sự “cẩu thả” của cơ quan điều tra. Tuy nhiên lại chỉ cần rút kinh nghiệm, không cần thiết phải khởi tố vụ án hình sự!?
Ngoài ra, trong hồ sơ vụ án cũng thể hiện dấu hiệu làm sai lệch khác, đó là thông báo gia hạn tạm giữ (ngày 26/9/2016) với bị cáo Ngọc đáng lẽ phải có sau nhưng lại được “đẻ” trước cả quyết định gia hạn (ngày 29/9/2016).
Điều này đại diện VKS tiếp tục cho rằng, lý do là “sự cẩu thả của cơ quan điều tra”?! Trường hợp của bị cáo Chiến cũng “kỳ quặc” không kém.
Bị cáo đang ở nhà thì được công an xã mời lên trụ sở “nhờ chút việc” sau đó tiến hành bắt giữ ngay tại đó, nhưng không đọc lệnh bắt, còn bị cáo cũng không biết ai bắt mình.
Sở dĩ có việc như vậy vì trong lệnh bắt ghi 1 người là Dương Quang Diện nhưng biên bản bắt là Hà Mạnh Linh, chứng tỏ việc bắt người là trái quy định của pháp luật.
Trong vụ án hình sự, chỉ một chi tiết nhỏ cũng có thể làm thay đổi bản chất hoặc hướng điều tra vụ việc dẫn tới kết quả khác.
Vậy mà, với những sai phạm nêu trên, ảnh hưởng không nhỏ đến sinh mệnh chính trị của các bị cáo, nhưng HĐXX và đại diện VKS dường như coi rất nhẹ.
Điều này chẳng những không phù hợp với tinh thần thượng tôn pháp luật, cơ quan thực thi pháp luật lại làm sai luật, mà còn vi phạm những nguyên tắc cơ bản của hoạt động tố tụng.
Theo đó, nhiệm vụ của quá trình điều tra, xét xử không chỉ nhằm phát hiện chính xác, xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm mà còn có nghĩa vụ không làm oan người vô tội; góp phần bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân...
Mặt khác, khi không đủ và không thể làm sáng tỏ căn cứ để buộc tội, kết tội theo trình tự, thủ tục do luật quy định thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải kết luận người bị buộc tội không có tội.
Hợp thức hóa hồ sơ thiếu thuyết phục
Theo quy định của pháp luật về thủ tục đặc biệt với người vị thành niên phạm tội, khi truy tố, xét xử phải có mặt người giám hộ thực hiện quyền giám hộ và các quyền khác của bị can vị thành niên.
Trong vụ án này, bị cáo Sự là trường hợp phạm tội khi chưa thành niên, nhưng hồ sơ vụ án cho thấy, khi lấy lời khai, cơ quan điều tra không mời mẹ của bị cáo giám hộ, cũng không có luật sư ở giai đoạn ban đầu. Do vậy, đã vi phạm nghiêm trọng quyền của bị can Sự thời điểm đó.
Thế nhưng, ở cả hai cấp tòa, HĐXX lại khẳng định vẫn đúng trình tự tố tụng, vẫn sử dụng lời khai này của Sự để làm căn cứ buộc tội, bỏ qua những vi phạm hiển nhiên rõ ràng, chưa nói đến việc có dấu hiệu bức cung nhục hình mà các bị cáo, nhân chứng đã tố cáo.
Bào chữa cho các bị cáo, các luật sư đã chỉ ra rằng HĐXX vô hình nhận định theo kiểu “nghe nhạc hiệu đoán chương trình”, chỉ nhìn vào chữ ký ở hồ sơ mà khẳng định cơ quan điều tra thực hiện đúng trình tự.
Bởi lẽ, trình tự đầu tiên là phải có quyết định triệu tập người giám hộ nhưng trong hồ sơ vụ án không có tài liệu này.
Trình tự phần thủ tục, phần đầu tiên của biên bản ghi lời khai phải ghi rõ tên, tuổi, địa chỉ, mối quan hệ của người giám hộ nhưng cũng không có, chỉ có mỗi chữ ký ở cuối. Trong khi đó, chữ ký ở phần giáp lai từng trang cũng bị bỏ quên?
Ở mục giải thích quyền và nghĩa vụ của người giám hộ trong hồ sơ cũng không có mục khai. Mặt khác, không hiểu lý do nào mà đoàn thanh niên có lúc lại trở thành người giám hộ dù bị cáo Sự vẫn còn mẹ mà không có diễn giải nào phù hợp.
Hơn nữa, trường hợp của Sự bắt buộc phải có luật sư tham gia nhưng trong giai đoạn đầu lấy lời khai cũng không có.
Vậy, căn cứ vào đâu để đại diện VKS khẳng định là đúng quy trình? Đồng thời, điều này cũng hoàn toàn phù hợp với lời khai mẹ của Sự tại tòa là được cán bộ điều tra đến tận nhà và bảo ký vào một loạt văn bản đã được viết sẵn. Thế nên, những chữ ký mẹ của Sự chỉ mang tính chất hợp thức hóa hồ sơ mà thôi.
Hiện trường có dấu hiệu làm giả
Lời khai của các bị cáo tại tòa, cũng như hồ sơ vụ án thể hiện việc thực nghiệm điều tra sai quy trình, dùng mô hình, không đưa nhân chứng vào chứng kiến, làm theo ý chí của cơ quan điều tra.
Cụ thể, như lời khai của các bị cáo là thực nghiệm hiện trường tại sân của công an tỉnh theo sự chỉ dẫn của cán bộ điều tra và không có sự tham gia đầy đủ của các thành phần.
Tất cả các tài liệu hồ sơ vụ án đều khẳng định Sơn và Quân đưa anh Tuyên đi cấp cứu lúc 17h30, quãng đường từ hiện trường vụ án tới trạm y tế rồi tới Bệnh viện Đa Khoa Phúc Yên tối thiểu đi cũng mất chừng 30 phút.
Tuy nhiên, ngay tại hồ sơ vụ án lại thể hiện Sơn cùng lúc có mặt tại hiện trường khám nghiệm đúng trong khoảng giờ đưa bạn đi cấp cứu.
Đồng thời, một người khác đó là bố của anh Tuyên là người không có liên quan trong vụ án lại có chữ ký trong biên bản khám nghiệm hiện trường?
Đặc biệt, tất cả các lời khai của nhân chứng đều khẳng định anh Tuyên bị chảy máu đầu, có 1 vũng nhỏ ở hiện trường, vậy nhưng mặc dù trong điều kiện thời tiết tốt (không có mưa), khám nghiệm ngay sau khi vụ án xảy ra cơ quan điều tra không thu thập được bất kỳ dấu vết nào tại hiện trường?
Những dấu hiệu trên chứng tỏ hiện trường có thể bị làm giả bởi Sơn không thể cùng lúc xuất hiện ở 2 nơi. Tuy nhiên, khi các luật sư yêu cầu triệu tập nhân chứng để làm rõ thì lại không được HĐXX chấp thuận.
Từ dấu hiệu mâu thuẫn trên có thể kéo theo hàng loạt sai phạm có tính dây truyền của những lời khai khác và thu thập chứng cứ buộc tội. Thế mà, trong cả 2 phiên tòa, HĐXX vẫn sử dụng chứng cứ là những lời khai tại hồ sơ vốn đang mâu thuẫn ấy để buộc tội bị cáo?
Mập mờ dấu hỏi cơ chế tử vong của bị hại?
Tội cố ý gây thương tích phải có hành vi gây ra hậu quả. Như đã phân tích rất nhiều ở những bài viết trước, theo kết luận của Viện Pháp y Quốc gia anh Tuyên tử vong do bị ung thư đường mật, một loại bệnh lý hiểm nghèo khiến bệnh nhân sống không quá 1 năm.
Trong vụ án này, nếu giả thiết anh Tuyên ban đầu bị chấn thương sọ não, tổn hại 81% sức khỏe, theo kết luận của Viện pháp y tỉnh Vĩnh Phúc.
Sau 4 tháng điều trị tại một số bệnh viện, đến tháng 8/2016, anh Tuyên đã hoàn toàn tỉnh táo, tự chăm sóc bản thân và được về nhà điều trị và đến 2 tháng sau anh Tuyên tử vong.
Trong hồ sơ vụ án không có bất kỳ báo cáo tình trạng sức khỏe nào của anh Tuyên thời gian anh này ở nhà để làm căn cứ đánh giá.
Tuy nhiên, nó hoàn toàn logic với kết luận của Viện Pháp y Quốc gia anh Tuyên tử vong do ung thư gan, ứ mật và vết thương dưới da đầu không thể gây tổn thương sọ não và đánh giá thương tật.
Đồng thời, do việc không xác định được bệnh lý của anh Tuyên là ung thư nhưng chủ yếu điều trị theo hướng bị chấn thương sọ não, điều đó có tác động như thế nào đến việc anh Tuyên tử vong cũng không được làm rõ trong hồ sơ.
Trong vụ án này, cơ chế, nguyên nhân dẫn đến cái chết của anh Tuyên, HĐXX, VKS, luật sư đều không có chuyên môn về mặt pháp y, cần thiết được thẩm vấn làm rõ tại phiên tòa được đề nghị triệu tập giám định viên nhưng không được chấp thuận.
HĐXX lại cho rằng đã có văn bản giải thích của viện pháp y nhưng không được tranh luận công khai tại tòa.
Trong khi quan điểm công tố của VKS thì vẫn khăng khăng rằng các bị cáo là người tác động gây thương tích dẫn đến việc anh Tuyên tử vong nhanh hơn và phải chịu hậu quả về hành vi đó có thuyết phục hay không?
Lời khai nào có giá trị chứng minh?
Các luật sư bào chữa đều nhận định, qua hồ sơ bằng văn bản và lời khai của con người cụ thể, có điểm chung là cả 5 người đều kêu oan, khai có sự bức cung nhục hình dù không được giam chung, cho thấy có sự phù hợp.
Thậm chí, còn có tài liệu của người làm chứng là chị Triệu Thị Lan, cũng khẳng định bị dùng các biện pháp ép cung để khai phù hợp với tình tiết vụ án.
Tranh tụng tại tòa, đại diện VKS vẫn vận dụng “bài” cũ đó là các bị cáo không chứng minh được mình bị bức cung, nhục hình.
Tuy nhiên, xem xét 2 góc độ, các bị cáo có quyền được bào chữa cho mình, qua đó, đây phải coi là lời tố giác tội phạm trong 1 vụ án cần được điều tra xác minh, nhưng chưa thẩm vấn, đại diện VKS đã vội kết luận là không có căn cứ.
Bởi, trong vụ án sẽ không sử dụng lời khai của bị để buộc tội khi không phù hợp với tài liệu chứng cứ khác, chưa nói đến việc trong vụ án này còn quá nhiều mâu thuẫn, thậm chí có dấu hiệu bức cung nhục hình.
Như vậy, không đủ căn cứ để khẳng định các bị cáo quanh co chối tội như bản án sơ thẩm và kết luận của đại diện VKS.
Dẫn chứng là HĐXX buộc tội Sự gọi điện khởi xướng, các bị cáo liên lạc với nhau qua điện thoại nhưng tại hồ sơ, phiên tòa công khai, trích xuất dữ liệu di động đều không chứng minh được?
Trong khi, các bị cáo khác vẫn khẳng định không gọi điện, không quen biết Sự và còn có bằng chứng ngoại phạm. Do đó, HĐXX đang quy kết cho bị cáo. Vì vậy, có thể khẳng định,đại diện VKS kết luận như trên mới là thiếu căn cứ, mà không phải lời khai của các bị cáo.
Chỉ trú trọng chứng cứ buộc tội
Luật sư Nguyễn Văn Chiến, Phó chủ tịch Liên đoàn Luật sư Việt Nam, Chủ nhiệm Đoàn Luật sư TP. Hà Nội, bào chữa cho các bị cáo đưa ra quan điểm, HĐXX, đại diện VKS không đưa ra tài liệu chứng cứ thuyết phục, đủ căn cứ chứng minh cho bản án sơ thẩm có căn cứ.
Đồng thời bác bỏ tài liệu, chứng cứ gỡ tội và ý kiến của các bị cáo đưa ra, cũng như chứng cứ mới, lời khai biên bản làm việc của người làm chứng mà các luật sư đã thu thập trong quá trình xét xử phúc thẩm và cung cấp cho HĐXX.
Qua đó đã khẳng định việc buộc tội cho các bị cáo là chung chung, không cụ thể và theo dàn dựng. Đồng thời, lời khai của nhiều nhân chứng cho thấy các bị cáo không phạm tội nhưng không được triệu tập để thẩm vấn, kiểm tra chéo và đối chất tại phiên tòa.
Những chứng cứ ngoại phạm của các bị cáo có căn cứ nhưng VKS lại không cần thẩm định, bác luôn giúp cơ quan điều tra, chứng tỏ 1 điều là chỉ thu thập chứng cứ buộc tội mà không theo nguyên tắc suy luận vô tội.
Nguyên tắc suy đoán vô tội đòi hỏi sự buộc tội phải dựa trên những chứng cứ xác thực không còn nghi ngờ. Mọi sự nghi ngờ đối với người bị bắt giữ, bị can, bị cáo đều phải được kiểm tra, chứng minh làm rõ.
Nếu không chứng minh làm rõ được sự nghi ngờ thì sự nghi ngờ đối với người bị bắt giữ, bị can, bị cáo phải được giải thích theo hướng có lợi cho họ.
Ví dụ, nghi ngờ một người là phạm tội nhưng không chứng minh được họ phạm tội thì phải coi họ là người vô tội; nghi ngờ một người phạm tội nặng nhưng không chứng minh được họ phạm tội nặng mà chỉ có cơ sở xác định hành vi của họ thỏa mãn dấu hiệu của cấu thành tội phạm nhẹ hơn thì phải coi là họ phạm tội nhẹ hơn…
Quay trở lại vụ án này, nhiều vấn đề có dấu hiệu sai sót, cần phải xác minh làm rõ sự thật của vụ án thì cơ quan tiến hành hành tố tụng lại kết luận luôn “không xem xét”, đối với những chứng cứ sai sót rõ ràng, được “chỉ mặt đặt tên” thì lại cho rằng đó là “sự cẩu thả” cần rút kinh nghiệm, không ảnh hưởng đến bản chất vụ án…
Theo chúng tôi, sự cẩu thả trong bất cứ lĩnh vực nào cũng là không nên, sự cẩu thả trong quá trình điều tra, xét xử vụ án hình sự lại càng không được phép. Bởi lẽ, đây là sự “cẩu thả chết người”.
Sự cẩu thả này phải đánh đổi bằng sinh mạng, danh dự, nhân phẩm của bao nhiêu con người, gia đình và người thân của họ. Mỗi một sai sót dù nhỏ cũng sẽ để lại những hệ lụy khôn lường, không thể khắc phục được.
Đối với hồ sơ vụ án đông bị cáo kêu oan, nhiều mâu thuẫn, chứng cứ không đầy đủ, chỉ sử dụng lời khai lúc nhận lúc không để làm cơ sở buộc tội là trái nguyên tắc suy đoán vô tội.
Vì vậy, tất cả các luật sư bào chữa đều đề nghị cần thiết phải hủy án sơ thẩm để điều tra bổ sung làm rõ những mâu thuẫn, khắc phục nhưng vi phạm tố tụng nghiêm trọng nêu trên.
Thế nhưng, rất tiếc những lời gan ruột này lại không được những người “cầm cân nảy mực” xem xét thật sự thấu đáo.