Vụ nổ kinh hoàng tại khu đô thị Văn Phú, Hà Nội hoàn toàn có thể được cơ quan chức năng khởi tố để điều tra nếu qua xác minh có dấu hiệu tội phạm, Luật sư Đặng Văn Cường khẳng định.
Như đã đưa tin, vào khoảng 15h10 chiều 19/3, tại vỉa hè TT9 khu đô thị Văn Phú, đường Lê Trọng Tấn kéo dài (quận Hà Đông) xảy ra một vụ nổ lớn, tạo ra một hố sâu vuông diện tích khoảng 4m2, sâu khoảng 1m.
Hậu quả của vụ nổ làm 3 người đi đường chết tại chỗ, 1 người chết trên đường đi cấp cứu, 1 người mất tích, 1 người bị thương nặng hiện đang cấp cứu tại Bệnh viện Quân y 103, 6 xe mô tô bị cháy,1 ô tô bị hư hỏng, các căn hộ từ số 8 đến số 27 TT9, số 75 đến 95 TT20 bị sụt nứt, hư hỏng...
|
Cảnh tượng tan hoang sau vụ nổ kinh hoàng. |
Có 36 căn nhà bị ảnh hưởng do vụ nổ, trong đó có 12 căn nhà bị hư hại nặng, 4 căn nhà do trực tiếp bị ảnh hưởng của vụ nổ nên chính quyền địa phương đã tổ chức di dời người dân lên chung cư Văn Phú – Victoria cách đó 500m để người dân tạm cư.
Dư luận đang quan tâm rằng, ai sẽ là người bồi thường cho những thiệt hại do vụ nổ xảy ra? Liệu có đủ căn cứ để khởi tố vụ án, phục vụ công tác điều tra hay không?
Phóng viên Pháp luật Plus vừa có cuộc trao đổi với luật sư Đặng Văn Cường - Văn phòng luật sư Chính pháp - Đoàn luật sư TP Hà Nội - về vấn đề này.
Luật sư Đặng Văn Cường bày tỏ quan điểm, vụ nổ tại khu biệt thự liền kề Văn Phú khiến nhiều người chết, đánh giá dưới góc độ pháp lý thì đây là một sự kiện pháp lý làm phát sinh, thay đổi và chấm dứt các quan hệ pháp luật.
Các quan hệ pháp luật có thể do vụ nổ này tác động tới là quan hệ dân sự, hôn nhân, thừa kế, quan hệ pháp luật hình sự...
Theo đó, cơ quan công an sẽ khẩn trương vào cuộc kiểm tra, xác minh nguồn tin để xác định nguyên nhân vụ nổ, hậu quả, mức độ thiệt hại về người và tài sản, trách nhiệm pháp lý của những người có liên quan.
Trước tiên cần thực hiện khám nghiệm hiện trường, thu thập các vật chứng từ các dấu vết, vật chứng để lại trên hiện trường, khám nghiệm tử thi, lấy lời khai của người làm chứng, lời khai của nạn nhân còn sống... để làm căn cứ xác định trách nhiệm pháp lý.
|
Luật sư Đặng Văn Cường. |
Vậy trong vụ việc này, liệu có đủ căn cứ để khởi tố vụ án, phục vụ công tác điều tra hay không? Luật sư Đặng Văn Cường cho rằng, nếu qua xác minh mà có căn cứ xác định vụ việc có dấu hiệu tội phạm (vô ý làm chết người hoặc có ai đó có mục đích gây thương tích, hủy hoại tài sản của người khác...) thì cơ quan điều tra sẽ tiến hành khởi tố vụ án, khởi tố bị can và tiến hành các thủ tục điều tra theo quy định pháp luật.
Nếu vụ việc là tai nạn lao động, xảy ra do bất cẩn của nạn nhân và nạn nhân này đã chết, không còn đồng phạm khác thì vụ việc cũng không được khởi tố mà chỉ thu thập chứng cứ để làm rõ trách nhiệm dân sự, giải quyết trách nhiệm dân sự giữa các bên.
Về trách nhiệm dân sự, nội dung về trách nhiệm dân sự trong vụ việc nêu trên được quy định tại Chương XXI, Bộ luật dân sự năm 2005 và một số văn bản pháp luật có liên quan.
Theo đó, Điều 604 Bộ luật dân sự quy định "người nào do lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của cá nhân, xâm phạm danh dự, uy tín, tài sản của pháp nhân hoặc chủ thể khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường".
Như vậy, người có hành vi gây thiệt hại cho nạn nhân là người có trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Điều 606 Bộ luật dân sự quy định năng lực trách nhiệm bồi thường thiệt hại như sau:
"Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân
1. Người từ đủ mười tám tuổi trở lên gây thiệt hại thì phải tự bồi thường.
2. Người chưa thành niên dưới mười lăm tuổi gây thiệt hại mà còn cha, mẹ thì cha, mẹ phải bồi thường toàn bộ thiệt hại.
Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi gây thiệt hại thì phải bồi thường bằng tài sản của mình, nếu không đủ tài sản để bồi thường thì cha, mẹ phải bồi thường phần còn thiếu bằng tài sản của mình.
3. Người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự gây thiệt hại mà có người giám hộ thì người giám hộ đó được dùng tài sản của người được giám hộ để bồi thường; nếu người được giám hộ không có tài sản hoặc không đủ tài sản để bồi thường thì người giám hộ phải bồi thường bằng tài sản của mình; nếu người giám hộ chứng minh được mình không có lỗi trong việc giám hộ thì không phải lấy tài sản của mình để bồi thường.
Ngoài ra, nếu người gây thiệt hại là người của pháp nhân (cán bộ, nhân viên) thì trách nhiệm bồi thường được quy định tại Điều 618 Bộ luật dân sự như sau: "Pháp nhân phải bồi thường thiệt hại do người của mình gây ra trong khi thực hiện nhiệm vụ được pháp nhân giao; nếu pháp nhân đã bồi thường thiệt hại thì có quyền yêu cầu người có lỗi trong việc gây thiệt hại phải hoàn trả một khoản tiền theo quy định của pháp luật."
Nếu người gây ra thiệt hại là người dưới 15 tuổi, người mất năng lực dân sự gây ra trong thời gian học tập thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại được áp dụng quy định tại Điều 621 BLDS, cụ thể như sau: "Bồi thường thiệt hại do người dưới mười lăm tuổi, người mất năng lực hành vi dân sự gây ra trong thời gian trường học, bệnh viện, tổ chức khác trực tiếp quản lý
1. Người dưới mười lăm tuổi trong thời gian học tại trường mà gây thiệt hại thì trường học phải bồi thường thiệt hại xảy ra.
2. Người mất năng lực hành vi dân sự gây thiệt hại cho người khác trong thời gian bệnh viện, tổ chức khác trực tiếp quản lý thì bệnh viện, tổ chức khác phải bồi thường thiệt hại xảy ra.
3. Trong các trường hợp quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này, nếu trường học, bệnh viện, tổ chức khác chứng minh được mình không có lỗi trong quản lý thì cha, mẹ, người giám hộ của người dưới mười lăm tuổi, người mất năng lực hình vi dân sự phải bồi thường."
Nếu người gây thiệt hại là người làm công, học nghề gây ra thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại được quy định tại Điều 622 Bộ luật dân sự.
Theo đó, cá nhân, pháp nhân và các chủ thể khác phải bồi thường thiệt hại do người làm công, người học nghề gây ra trong khi thực hiện công việc được giao và có quyền yêu cầu người làm công, người học nghề có lỗi trong việc gây thiệt hại phải hoàn trả một khoản tiền theo quy định của pháp luật.