Hiện nay, tại Việt Nam chưa có cơ quan chuyên biệt chịu trách nhiệm bảo vệ người tố cáo. Nhiệm vụ này được giao cho nhiều cơ quan nhà nước khác nhau và được quy định trong nhiều văn bản pháp luật.
|
Hình minh họa. |
Theo Luật tố cáo năm 2011 (điều 38, 39), Uỷ ban nhân dân các cấp có trách nhiệm bảo vệ người tố cáo tại nơi cư trú.
Tuy nhiên, trong trường hợp bảo vệ tính mạng, sức khoẻ, tài sản, danh dự, nhân phẩm, uy tín của người tố cáo, Luật lại không quy định trách nhiệm chính thuộc về cơ quan nào mà chỉ quy định trách nhiệm phối hợp với cơ quan công an và các cơ quan khác có thẩm quyền.
Theo Mục 2 Nghị định 76/2012/NĐ-CP ngày 03/10/2012 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Tố cáo thì các cơ quan có trách nhiệm bảo vệ người tố cáo bao gồm:
Cơ quan có trách nhiệm giải quyết tố cáo; cơ quan công an nơi người tố cáo, người thân thích của người tố cáo cư trú, làm việc, học tập; cơ quan công an nơi có tài sản của người tố cáo hoặc người thân thích của người tố cáo; tổ chức công đoàn cơ sở, cơ quan quản lý lao động hoặc cơ quan có thẩm quyền khác ở địa phương.
Nghị định 76 cũng quy định trách nhiệm phối hợp giữa các cơ quan này với nhau và với cơ quan, tổ chức hữu quan khác trong việc thực hiện các biện pháp bảo vệ người tố cáo.
Tuy nhiên, nếu việc phối hợp giữa người giải quyết tố cáo và các cơ quan, tổ chức có liên quan không tốt, thì việc bảo vệ người tố cáo vẫn khó có thể đạt yêu cầu trên thực tiễn, nhất là trong các tình huống bảo vệ tính mạng, sức khỏe, tài sản, danh dự, nhân phẩm, uy tín và các quyền nhân thân khác của người tố cáo.
Còn theo Điều 485, Chương XXXIV – Bảo vệ người tố giác tội phạm, người làm chứng, bị hại và người tham gia tố tụng khác, Bộ luật tố tụng hình sự sửa đổi năm 2015, cơ quan có thẩm quyền quyết định áp dụng biện pháp bảo vệ đối với người được bảo vệ (người tố giác tội phạm, người làm chứng, bị hại và người tham gia tố tụng khác) là cơ quan điều tra của Công an nhân dân và cơ quan điều tra trong Quân đội nhân dân.
Ngoài ra, Viện kiểm sát nhân dân và Tòa án nhân dân có thể đề nghị cơ quan điều tra trực tiếp thụ lý vụ án hình sự ra quyết định áp dụng biện pháp bảo vệ khi cần thiết.
Bên cạnh đó, Khoản 2 Điều 65 Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2005, sửa đổi bổ sung năm 2012 đã quy định: “Người đứng đầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền khi nhận được đơn tố cáo hành vi tham nhũng phải xem xét và xử lý theo thẩm quyền; giữ bí mật cho họ, tên, địa chỉ, bút tích và các thông tin khác theo yêu cầu của người tố cáo; áp dụng kịp thời các biện pháp cần thiết để bảo vệ người tố cáo khi có biểu hiện đe dọa, trả thù, trù dập người tố cáo hoặc khi người tố cáo yêu cầu; thông báo kết quả giải quyết tố cáo cho người tố cáo khi có yêu cầu”.
Như vậy, có thể thấy, tại Việt Nam, chưa có một cơ quan chuyên biệt nào chịu trách nhiệm bảo vệ người tố cáo, điều mà một số nước đã làm được khi thiết lập một cơ quan độc lập có quyền nhận và điều tra các khiếu nại về hành động trả đũa, phân biệt đối xử hoặc kỷ luật đối với người tố cáo.
Chẳng hạn như ở Mỹ, Luật Bảo vệ người tố cáo 1989 đã lập ra OSC. Ở Canada, Luật Bảo vệ công chức tố cáo (PSDPA) năm 2005 đã thành lập ra Liêm ủy khu vực. Các Ủy viên được trao quyền để nhận và điều tra các khiếu nại về việc làm sai trái và tố cáo bị trả thù.
Nếu các vi phạm quyền của người tố cáo được tìm thấy, Tòa án có thể yêu cầu khắc phục và áp đặt các hình phạt. Luật bảo vệ người tố cáo chuyên ngành cũng có thể thành lập các cơ quan cụ thể để nhận tố cáo và giải quyết khiếu nại.
Ví dụ như ở Hàn Quốc, một Ủy ban độc lập Chống tham nhũng và Nhân quyền được trao quyền theo luật để khởi động một cuộc điều tra khiếu nại việc trả thù người tố cáo, người đã tố cáo hành vi phạm tội tham nhũng.
Do vậy, trong điều kiện Việt Nam đang hoàn thiện khung pháp lý về bảo vệ người tố cáo (sửa đổi, bổ sung Luật tố cáo 2011) thì nhà nước, những người soạn thảo luật cần làm rõ cơ quan nào chịu trách nhiệm chính trong việc bảo vệ người tố cáo, đồng thời làm rõ cơ chế phối hợp giữa các cơ quan, đơn vị trong công tác này.