Người thực hiện phát ngôn và cung cấp thông tin cho báo chí của Bộ Tư pháp gồm: Bộ trưởng Bộ Tư pháp; Chánh Văn phòng Bộ Tư pháp. Trong trường hợp cần thiết, Bộ trưởng Bộ Tư pháp ủy quyền cho người có trách nhiệm thuộc Bộ thực hiện phát ngôn.
|
Bộ trưởng Tư pháp Lê Thành Long trả lời phỏng vấn báo chí bên hành lang Quốc hội. (Ảnh: Zing) |
Bộ trưởng Bộ Tư pháp Lê Thành Long vừa ký Quyết định số 27/QĐ-BTP ban hành Quy chế phát ngôn và cung cấp thông tin cho báo chí của Bộ Tư pháp và Hệ thống Thi hành án dân sự thay thế Quy chế hiện hành.
Quy chế nêu rõ: Người thực hiện phát ngôn và cung cấp thông tin cho báo chí của Bộ Tư pháp gồm: Bộ trưởng Bộ Tư pháp; Chánh Văn phòng Bộ Tư pháp là Người phát ngôn và cung cấp thông tin thường xuyên cho báo chí của Bộ Tư pháp (sau đây gọi là Người phát ngôn của Bộ Tư pháp). Trong trường hợp cần thiết, Bộ trưởng Bộ Tư pháp ủy quyền cho người có trách nhiệm thuộc Bộ thực hiện phát ngôn (sau đây gọi là Người được ủy quyền phát ngôn của Bộ Tư pháp) hoặc phối hợp cùng Người phát ngôn của Bộ Tư pháp để phát ngôn hoặc cung cấp thông tin cho báo chí về những vấn đề cụ thể được giao.
Người thực hiện phát ngôn và cung cấp thông tin cho báo chí của Tổng cục Thi hành án dân sự, các Cục thuộc Bộ và Cục Thi hành án dân sự cấp tỉnh bao gồm: Tổng cục trưởng, Cục trưởng các Cục thuộc Bộ, Cục trưởng Cục Thi hành án dân sự cấp tỉnh. Trường hợp Tổng cục trưởng, Cục trưởng không thể thực hiện phát ngôn và cung cấp thông tin cho báo chí thì ủy quyền cho cấp phó là người được giao phụ trách cơ quan thực hiện việc phát ngôn và cung cấp thông tin cho báo chí.
Họ tên, chức vụ, số điện thoại và địa chỉ thư điện tử của Người phát ngôn của Bộ Tư pháp, Tổng cục Thi hành án dân sự, các Cục thuộc Bộ Tư pháp và Cục Thi hành án dân sự cấp tỉnh được công bố bằng văn bản cho các cơ quan báo chí, cơ quan quản lý nhà nước về báo chí cùng cấp và đăng tải trên Cổng thông tin điện tử của Bộ Tư pháp, Cổng thông tin điện tử hoặc Trang thông tin điện tử của Tổng cục, Cục.
Người phát ngôn, Người được ủy quyền phát ngôn của Bộ Tư pháp, Tổng cục Thi hành án dân sự, các Cục thuộc Bộ và Cục Thi hành án dân sự cấp tỉnh quy định tại Điều này không được ủy quyền tiếp cho người khác.
Việc ủy quyền phát ngôn quy định tại điểm c khoản 1 và điểm b khoản 2 Điều này được thực hiện bằng văn bản, chỉ áp dụng trong từng vụ việc và có thời hạn nhất định.
Khi thực hiện ủy quyền thì họ, tên, chức vụ, số điện thoại và địa chỉ thư điện tử của Người được ủy quyền phát ngôn và văn bản ủy quyền phải được đăng tải trên Cổng thông tin điện tử của Bộ Tư pháp, Cổng thông tin điện tử hoặc Trang thông tin điện tử của Tổng cục, Cục trong thời hạn 12 giờ kể từ khi ký văn bản ủy quyền.
Cá nhân các đơn vị thuộc Bộ Tư pháp và Hệ thống Thi hành án dân sự các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương không là người được giao nhiệm vụ phát ngôn và cung cấp thông tin cho báo chí được cung cấp thông tin cho báo chí theo quy định của pháp luật nhưng không được nhân danh Bộ Tư pháp và đơn vị mình; chịu trách nhiệm trước pháp luật về nội dung thông tin đã cung cấp.
Hình thức phát ngôn và cung cấp thông tin cho báo chí, theo Quy chế mới, gồm:
- Tổ chức họp báo.
- Đăng tải nội dung phát ngôn và cung cấp thông tin trên Cổng thông tin điện tử của Bộ Tư pháp, Cổng thông tin điện tử hoặc Trang thông tin điện tử của Tổng cục, Cục.
- Phát ngôn trực tiếp hoặc trả lời phỏng vấn của nhà báo, phóng viên.
- Gửi thông cáo báo chí, nội dung trả lời cho cơ quan báo chí, nhà báo, phóng viên bằng văn bản hoặc qua thư điện tử.
- Cung cấp thông tin qua trao đổi trực tiếp hoặc tại các cuộc giao ban báo chí do Trung ương, địa phương tổ chức khi được yêu cầu.
- Ban hành văn bản đề nghị cơ quan báo chí đăng, phát phản hồi, cải chính, xin lỗi nội dung thông tin trên báo chí mà báo chí đã đăng không chính xác như thông tin đã được cung cấp.
Quy chế cũng quy định rõ: Người phát ngôn cung cấp thông tin định kỳ cho báo chí tại Bộ Tư pháp về các nội dung chủ yếu sau:
- Tình hình ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ theo quy định tại Thông tư số 12/2013/TT-BTP ngày 07/8/2013 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp quy định quy trình ra thông cáo báo chí về văn bản quy phạm pháp luật do Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành;
- Các văn bản quy phạm pháp luật do Bộ Tư pháp chủ trì xây dựng, văn bản hướng dẫn thực hiện các nhiệm vụ thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp;
- Tình hình và kết quả hoạt động của Bộ Tư pháp trên các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp;
- Kế hoạch, chương trình công tác của Bộ Tư pháp;
- Các nội dung khác liên quan đến việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ Tư pháp khi cần thiết.
Định kỳ hàng tháng, Bộ Tư pháp sẽ cung cấp thông tin cho báo chí trên Cổng thông tin điện tử của Bộ Tư pháp (http://www.moj.gov.vn) theo quy định của pháp luật.
Trong vòng 10 ngày đầu của mỗi Quý, Bộ Tư pháp tổ chức họp báo để cung cấp thông tin định kỳ cho báo chí.
Trường hợp cần thiết, Bộ Tư pháp thực hiện cung cấp thông tin định kỳ cho báo chí bằng văn bản dưới hình thức thông cáo báo chí hoặc thông tin trực tiếp tại các cuộc họp giao ban do Ban Tuyên giáo Trung ương, Bộ Thông tin và Truyền thông và Hội Nhà báo Việt Nam tổ chức và tại các buổi họp báo Chính phủ thường kỳ do Văn phòng Chính phủ tổ chức. Bên cạnh đó, Bộ Tư pháp cung cấp cho Cổng thông tin điện tử Chính phủ theo quy định hiện hành.
|
Bên cạnh việc họp báo và cung cấp thông tin định kỳ, Bộ Tư pháp có thể họp báo đột xuất nếu thấy cần thiết (Hình minh hoạ - PV). |
Trong trường hợp đột xuất, Người phát ngôn hoặc Người được ủy quyền phát ngôn của Bộ Tư pháp có trách nhiệm phát ngôn và cung cấp thông tin kịp thời, chính xác cho báo chí:
- Khi thấy cần thiết phải thông tin trên báo chí về các sự kiện, vấn đề quan trọng có tác động lớn trong xã hội thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp nhằm cảnh báo kịp thời và định hướng dư luận; thông tin về quan điểm và cách xử lý của Bộ Tư pháp đối với các sự kiện, vấn đề đó.
Trường hợp xảy ra vụ việc cần có ngay thông tin ban đầu của Bộ Tư pháp thì Người phát ngôn có trách nhiệm chủ động phát ngôn và cung cấp thông tin cho báo chí trong thời gian chậm nhất là 24 giờ, kể từ khi vụ việc xảy ra;
- Khi cơ quan báo chí hoặc cơ quan chỉ đạo, quản lý nhà nước về báo chí có yêu cầu phát ngôn hoặc cung cấp thông tin về các sự kiện, vấn đề của cơ quan, lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp đã được nêu trên báo chí hoặc về các sự kiện, vấn đề nêu tại điểm a khoản 1 Điều này;
- Khi được Chính phủ giao chủ trì xử lý sự cố xảy ra liên quan đến nhiều bộ, ngành và nhiều tỉnh, thành phố;
- Khi cần thông tin về vấn đề liên quan đến lĩnh vực quản lý của nhiều đơn vị thuộc Bộ.
Người phát ngôn hoặc người được ủy quyền phát ngôn của Tổng cục, các Cục thuộc Bộ, Cục Thi hành án dân sự cấp tỉnh có trách nhiệm phát ngôn hoặc phối hợp với Người phát ngôn của Bộ cung cấp thông tin kịp thời, chính xác cho báo chí khi thấy cần thiết phải thông tin trên báo chí về các sự kiện, vấn đề quan trọng có tác động trong xã hội thuộc phạm vi quản lý của Tổng cục, các Cục thuộc Bộ, Cục Thi hành án dân sự cấp tỉnh nhằm định hướng dư luận.
Trường hợp xảy ra vụ việc cần có ngay thông tin ban đầu của Tổng cục, các Cục thuộc Bộ, Cục Thi hành án dân sự cấp tỉnh thì Tổng cục trưởng, Cục trưởng hoặc Người được Tổng cục trưởng, Cục trưởng ủy quyền phát ngôn có trách nhiệm chủ động phát ngôn và cung cấp thông tin cho báo chí trong thời gian chậm nhất là 24 giờ, kể từ khi vụ việc xảy ra.
Bộ Tư pháp có quyền từ chối cung cấp thông tin cho báo chí trong trường hợp thông tin thuộc danh mục bí mật nhà nước, bí mật thuộc nguyên tắc và quy định của Đảng, bí mật đời tư của cá nhân và bí mật khác theo quy định của pháp luật; Thông tin về vụ án đang được điều tra hoặc chưa xét xử, trừ trường hợp cần thông tin trên báo chí những vấn đề có lợi cho hoạt động điều tra và công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm; Thông tin về vụ việc đang trong quá trình thanh tra chưa có kết luận thanh tra; vụ việc đang trong quá trình giải quyết khiếu nại, tố cáo; những vấn đề tranh chấp, mâu thuẫn giữa các cơ quan nhà nước đang trong quá trình giải quyết, chưa có kết luận chính thức của người có thẩm quyền mà theo quy định của pháp luật chưa được phép công bố; Những văn bản chính sách, đề án đang trong quá trình soạn thảo mà theo quy định của pháp luật chưa được cấp có thẩm quyền cho phép công bố và các trường hợp khác theo quy định của pháp luật.