e magazine
Bài cuối: Khắc phục khó khăn, phấn đấu đưa du lịch trở thành nền kinh tế mũi nhọn

30/11/2025 12:35

Với quyết tâm đưa Tuyên Quang trở thành điểm đến hấp dẫn bậc nhất thế giới, thời gian qua, tỉnh Tuyên Quang đã ban hành nhiều chính sách quan trọng.

Với quyết tâm đưa Tuyên Quang trở thành điểm đến hấp dẫn bậc nhất thế giới, thời gian qua, tỉnh Tuyên Quang đã ban hành nhiều chính sách quan trọng hỗ trợ toàn diện đồng bào dân tộc thiểu số làm du lịch. Từ đó, giảm bớt khó khăn về kinh phí cho các cá nhân, hộ gia đình, các tổ chức đầu tư phát triển các dịch vụ du lịch, góp phần bảo tồn văn hóa, tạo việc làm, nâng cao thu nhập cho cộng đồng.

Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang lần thứ XVI, nhiệm kỳ 2025–2030, tỉnh Tuyên Quang xác định rõ quan điểm: “Phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế quan trọng, mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc, xanh và bền vững; gắn với bảo tồn, phát huy giá trị di sản, xây dựng con người Tuyên Quang thân thiện, mến khách, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội nhanh và bền vững.”

Đây là định hướng chiến lược thể hiện tầm nhìn dài hạn của tỉnh, coi du lịch không chỉ là lĩnh vực kinh tế, mà còn là cầu nối văn hóa, đối ngoại và hội nhập.

Trao đổi với phóng viên Báo Pháp luật Việt Nam, bà Nguyễn Thị Hoài – Phó Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Tuyên Quang cho biết: “Để tạo bước chuyển mạnh mẽ cho ngành du lịch địa phương, theo tôi, cần sự phối hợp đồng bộ giữa Trung ương và địa phương. Trong đó, mỗi cấp đóng vai trò khác nhau nhưng cùng hướng tới mục tiêu phát triển du lịch bền vững, dựa vào cộng đồng”.

Theo bà Hoài, về phía Trung ương, cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống cơ chế, chính sách và văn bản pháp luật về phát triển du lịch bền vững, đặc biệt là đối với vùng miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Cần có chính sách tín dụng ưu đãi cho các hộ làm du lịch cộng đồng; chính sách hỗ trợ đầu tư hạ tầng thiết yếu như giao thông, điện, nước, môi trường, viễn thông; cơ chế khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào vùng khó khăn nhưng giàu tiềm năng du lịch.

Bên cạnh đó, cần tăng cường hỗ trợ xúc tiến, quảng bá du lịch quốc gia, đào tạo nhân lực, chuyển đổi số và kết nối tour tuyến liên vùng để các địa phương như Tuyên Quang, Hà Giang có cơ hội vươn lên, tiếp cận thị trường quốc tế.

Về phía địa phương, Ủy ban nhân dân tỉnh Tuyên Quang đã giao cho Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch chủ trì tham mưu xây dựng chính sách hỗ trợ phát triển du lịch giai đoạn 2026–2030, dự kiến trình Hội đồng nhân dân tỉnh ban hành tại kỳ họp tháng 6 năm 2026. Đây là chính sách mang tính tổng thể và đồng bộ, nhằm cụ thể hóa các mục tiêu của Nghị quyết Đại hội, tạo cơ chế đặc thù để phát triển du lịch xanh, bền vững, gắn với sinh kế của người dân.

Chính sách này sẽ tập trung vào năm nhóm định hướng chủ yếu: Thứ nhất, hoàn thiện cơ chế quản lý nhà nước và quy hoạch hạ tầng du lịch, thúc đẩy liên kết vùng và tạo điều kiện thuận lợi cho đầu tư phát triển sản phẩm du lịch đặc thù của tỉnh.

Thứ hai, hỗ trợ phát triển du lịch cộng đồng, du lịch nông thôn và du lịch xanh; ưu tiên đầu tư cho các làng văn hóa du lịch tiêu biểu, các hộ kinh doanh homestay, hợp tác xã và tổ hợp tác du lịch cộng đồng; hỗ trợ vay vốn ưu đãi, cải tạo cảnh quan, mua sắm trang thiết bị, xây dựng nhà vệ sinh và khu lưu trú đạt chuẩn.

Thứ ba, phát triển nguồn nhân lực du lịch theo hướng chuyên nghiệp, thân thiện, hội nhập; tập trung đào tạo nghề, kỹ năng phục vụ, quảng bá, chuyển đổi số và giao tiếp ngoại ngữ cho người dân, nhất là thanh niên, phụ nữ và đồng bào dân tộc thiểu số.

Thứ tư, đẩy mạnh chuyển đổi số và xúc tiến quảng bá, xây dựng cơ sở dữ liệu và bản đồ du lịch số; hỗ trợ doanh nghiệp và hộ dân quảng bá sản phẩm, kết nối tour tuyến, thanh toán điện tử; tham gia các giải thưởng du lịch uy tín trong nước và quốc tế nhằm nâng cao thương hiệu “Tuyên Quang – điểm đến văn hóa, xanh và bền vững.”

Thứ năm, bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa gắn với phát triển du lịch, hỗ trợ nghệ nhân, làng nghề, lễ hội, kiến trúc truyền thống, sản phẩm OCOP và không gian văn hóa dân tộc, vừa gìn giữ bản sắc, vừa tạo sinh kế bền vững.

Đối với công tác quản lý cơ sở du lịch cộng đồng, ông Chu Minh Quang – Giám đốc Trung tâm Dịch vụ công xã Mèo Vạc, kiêm Trưởng Làng Văn hóa du lịch cộng đồng dân tộc Mông thôn Pả Vi Hạ cho rằng, để phát triển dài hơi, động lực quan trọng nhất là sự gắn kết giữa hạ tầng – văn hóa – con người.

Cụ thể, cần tập trung vào 3 yếu tố: Đầu tư hạ tầng thiết yếu như cấp nước sinh hoạt, bãi đỗ xe, xử lý rác thải, chiếu sáng, không gian công cộng – nhằm tạo môi trường bền vững cho du lịch cộng đồng.

Tăng cường liên kết vùng, hình thành chuỗi tua – tuyến giữa Pả Vi Hạ với các điểm du lịch lân cận như Lũng Cú, Khâu Vai, Cao Bằng, Lạng Sơn… tạo nên hành trình văn hóa Mông xuyên vùng Cao nguyên đá.

“Phát triển con người làm du lịch chuyên nghiệp – đây chính là yếu tố then chốt. Đồng bào dân tộc Mông không chỉ là “chủ nhân di sản”, mà còn là nguồn lực sống động gìn giữ và lan tỏa văn hóa bản địa đến du khách. Khi người dân hiểu rõ giá trị văn hóa của mình và được hưởng lợi công bằng từ du lịch, họ sẽ trở thành “đại sứ văn hóa” thực thụ.

Chúng tôi tin rằng, với sự đồng hành của các cấp, ngành và doanh nghiệp, Làng Văn hóa du lịch cộng đồng dân tộc Mông thôn Pả Vi Hạ nói riêng sẽ tiếp tục là điểm sáng về du lịch cộng đồng gắn với bản sắc, văn minh và phát triển bền vững”, ông Quang cho biết thêm.

Tiến sĩ Nguyễn Thị Hải Anh – giảng viên Trường Ngoại ngữ, Đại học Thái Nguyên thẳng thắn chia sẻ: “Theo tôi, quảng bá văn hóa trong bối cảnh du lịch hiện nay không thể chỉ dựa vào các hoạt động truyền thống, mà cần được nhìn nhận như một quá trình tái tạo di sản sống. Văn hóa không phải là những “hiện vật” cố định, mà là dòng chảy tri thức liên tục được tái sinh thông qua sự tham gia chủ động của con người địa phương”.

Theo tiến sĩ Nguyễn Thị Hải Anh, nhiệm vụ của công tác quảng bá không chỉ là “đưa văn hóa ra thế giới”, mà còn là trao lại quyền kể chuyện về chính mình cho cộng đồng, để họ trở thành người diễn giả di sản một cách chân thực và sinh động nhất. Chỉ khi văn hóa được lan tỏa bằnag chính tiếng nói và năng lực sáng tạo của cộng đồng, du lịch mới thật sự trở thành cầu nối bền vững giữa bảo tồn và phát triển, nơi giá trị văn hóa không bị tiêu hao, mà được tái sinh trong đời sống hiện đại.

“Điều tôi đặc biệt trân trọng là tinh thần học hỏi và chủ động của người dân Tuyên Quang. Trong nhiều cộng đồng, bà con không chỉ xem du lịch như một sinh kế, mà còn như một phương tiện để bảo tồn và truyền dạy văn hóa truyền thống cho thế hệ trẻ. Ở góc độ nghiên cứu, chúng tôi đang xây dựng mô hình ứng dụng công nghệ số trong bảo tồn văn hóa truyền thống và phát triển du lịch cộng đồng của người Dao đỏ tại thôn Nậm Hồng, xã Thông Nguyên, tỉnh Tuyên Quang.

Dự án này hướng đến việc số hóa văn hóa (lễ hội, trang phục, tri thức y học cổ truyền…), qua đó giúp người dân vừa lưu giữ được bản sắc, vừa tiếp cận được với thị trường du lịch hiện đại.

Từ thực tế đó, tôi cho rằng điều quan trọng không phải chỉ là nhân rộng một “mô hình điển hình” nào, mà là xây dựng năng lực tự thân của mỗi cộng đồng, để họ có thể chủ động điều chỉnh, sáng tạo và phát triển du lịch theo cách riêng của mình, trong khuôn khổ của sự bền vững văn hóa – sinh thái – xã hội”, Tiến sĩ Nguyễn Thị Hải Anh chia sẻ.

Tiến sĩ Nguyễn Thị Hải Anh cho rằng, thay vì quá chú trọng đến việc “đưa du lịch ra ngoài” để thu hút thật nhiều khách, có lẽ nên nghĩ đến việc “nuôi dưỡng du lịch từ bên trong”, bằng cách chăm chút cho đời sống văn hóa, sinh kế và niềm tự hào của người dân địa phương. Khi cộng đồng cảm thấy tự tin và có khả năng kể câu chuyện của chính mình, du lịch sẽ phát triển tự nhiên, bền vững và mang chiều sâu văn hóa hơn.

“Tuyên Quang là vùng đất có bề dày văn hóa, cảnh quan đặc sắc và con người hiền hòa, cởi mở. Nếu những yếu tố ấy tiếp tục được bồi đắp trong tinh thần kiên nhẫn và tôn trọng lẫn nhau, tôi tin rằng du lịch ở đây sẽ phát triển không chỉ nhanh hơn, mà còn sâu hơn – hướng tới những giá trị bền vững và hài hòa”, Tiến sĩ Nguyễn Thị Hải Anh cho hay.

Có thể nói, với những chính sách hỗ trợ phát triển du lịch tỉnh Tuyên Quang cụ thể: Nghị quyết số 09/2021/NQ-HĐND ngày 20/12/2021 quy định một số chính sách hỗ trợ phát triển du lịch trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang; Nghị quyết số 10/2023/NQ-HĐND ngày 15/7/2023 Quy định một số chính sách hỗ trợ phát triển du lịch đến năm 2028 trên địa bàn tỉnh Hà Giang (cũ); Nghị quyết 35 của HĐND tỉnh Hà Giang (cũ) quy định một số chính sách hỗ trợ phát triển du lịch; Nghị quyết số 14/2023/NQ-HĐND ngày 15/7/2023 Quy định một số chính sách hỗ trợ đối với người trực tiếp trông coi di tích và nghệ nhân lĩnh vực di sản văn hóa phi vật thể trên địa bàn tỉnh Hà giang; Nghị quyết số 03/2021/NQ-HĐND ngày 16/7/2021 của HĐND tỉnh Tuyên Quang về chính sách hỗ trợ phát triển nông, lâm nghiệp, thủy sản hàng hóa, sản phẩm OCOP và xây dựng nông thôn mới; Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2025 (dự án 6)...Thể hiện rõ định hướng “lấy cộng đồng làm trung tâm, văn hóa làm nền tảng, công nghệ làm công cụ và phát triển bền vững làm mục tiêu.”

Khi Trung ương tiếp tục hoàn thiện cơ chế, còn địa phương chủ động hành động và đồng hành cùng người dân, du lịch Tuyên Quang sẽ có đủ điều kiện vươn lên, trở thành điểm đến văn hóa, sinh thái và trải nghiệm hàng đầu của khu vực miền núi phía Bắc và của Việt Nam.

Thực hiện: Phàn Giào Họ

Đồ họa: Giào Họ

Phàn Giào Họ