![]() |
Bản sắc văn hóa đặc sắc vốn là lợi thế đối với phát triển du lịch, đặc biệt là du lịch cộng đồng. Song hiện nay, cả hai vẫn chưa thực sự phát triển tương xứng, điều này cần có cơ chế, giải pháp lâu dài để đảm bảo người dân có thu nhập từ kinh doanh du lịch, nhưng vẫn tự nguyện gìn giữ các giá trị truyền thống tốt đẹp trong bối cảnh chuyển đổi số.
![]() |
Thực tế, những năm gần đây, du lịch Tuyên Quang đã có sự phát triển rõ rệt cả về quy mô, chất lượng và thương hiệu điểm đến.
Điều này thể hiện ở lượng khách du lịch tăng trưởng ổn định, phản ánh sức bật của ngành sau giai đoạn khó khăn do dịch bệnh. Nếu như giai đoạn 2020–2024, toàn tỉnh đón trung bình 2,3 triệu lượt khách/năm, thì đến năm 2025 dự kiến đạt 3,6 triệu lượt khách, trong đó có gần 500 nghìn lượt khách quốc tế, doanh thu ước đạt 9.418 tỷ đồng, đóng góp tích cực vào GRDP của tỉnh.
![]() |
Song song với tăng trưởng lượng khách, chất lượng nguồn nhân lực du lịch cũng được nâng cao rõ rệt. Theo thống kê của Sở Văn hóa thể thao và Du lịch Tuyên Quang, toàn tỉnh hiện có khoảng 27.600 lao động làm việc trong lĩnh vực du lịch, trên 50% đã qua đào tạo nghiệp vụ, nhiều người dân tộc thiểu số được trang bị kỹ năng đón tiếp, phục vụ và quản lý mô hình homestay.
Tỉnh Tuyên Quang cũng thường xuyên phối hợp với các tổ chức quốc tế như Helvetas, UNDP, UN Tourism tổ chức tập huấn về du lịch xanh, chuyển đổi số và ứng xử văn minh du lịch, giúp cộng đồng địa phương thực sự trở thành chủ thể của phát triển du lịch. Hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch cũng đang dần được đầu tư đồng bộ.
| Hiện nay, toàn tỉnh có 36 khu, điểm du lịch được công nhận, hơn 1.478 cơ sở lưu trú với 14.200 buồng, trong đó nhiều khách sạn, khu nghỉ dưỡng đạt tiêu chuẩn 3–5 sao; hàng trăm homestay đạt chuẩn cộng đồng. Hệ thống giao thông du lịch được mở rộng, đặc biệt là tuyến cao tốc Tuyên Quang – Hà Giang đang hoàn thiện, tạo điều kiện kết nối các trung tâm du lịch lớn như Tân Trào – Na Hang – Lâm Bình – Đồng Văn, mở ra không gian liên kết phát triển vùng Việt Bắc. |
Cùng với đó, địa phương cũng chú trọng xây dựng môi trường du lịch văn minh, thân thiện, an toàn. Bộ Quy tắc ứng xử văn minh du lịch được phổ biến rộng rãi đến các khu, điểm và cơ sở kinh doanh du lịch. Nhận thức cộng đồng được nâng cao, hình ảnh người dân Tuyên Quang ngày càng được du khách ghi nhận là hiền hòa, mến khách, chân thành và chuyên nghiệp.
Song song với những mặt cơ bản đã hoàn thiện, tỉnh Tuyên Quang còn gặp không ít thách thức đối với xu hướng phát triển du lịch ngày nay.
Trao đổi với phóng viên Báo Pháp luật Việt Nam, Tiến sĩ Nguyễn Thị Hải Anh - giảng viên Trường Ngoại ngữ, Đại học Thái Nguyên cho biết: “Bên cạnh những bước tiến đáng ghi nhận, theo tôi du lịch Tuyên Quang vẫn còn tồn tại một số hạn chế. Thứ nhất, cơ sở hạ tầng du lịch và giao thông kết nối đến các bản làng còn hạn chế, khiến việc tiếp cận của du khách chưa thật sự thuận lợi.
Thứ hai, nhiều điểm du lịch cộng đồng vẫn thiếu tính chuyên nghiệp trong khâu tổ chức dịch vụ, sản phẩm còn trùng lặp, thiếu câu chuyện bản sắc riêng để tạo ấn tượng sâu sắc cho du khách”.
Theo tiến sĩ Nguyễn Thị Hải Anh, công tác truyền thông và xúc tiến du lịch tại địa phương cho thấy vẫn chưa thật sự hiệu quả, chưa tạo được thương hiệu rõ ràng cho du lịch Tuyên Quang trên bản đồ du lịch khu vực.
Một vấn đề đáng lưu ý khác là sự tham gia của người dân nhiều khi còn mang tính tự phát, chưa được hỗ trợ đầy đủ về kỹ năng quản lý, marketing hay ứng dụng công nghệ số – những yếu tố rất quan trọng trong bối cảnh chuyển đổi số hiện nay.
![]() |
Cũng liên quan đến những khó khăn trong việc gìn giữ, phát huy bản sắc văn hóa gắn với phát triển du lịch trong thời kỳ mới, buổi tọa đàm với chủ đề “ứng dụng công nghệ số để bảo tồn, phát huy văn hóa truyền thống dân tộc Dao gắn với du lịch cộng đồng” được tổ chức tại thôn Nậm Hồng, xã Thông Nguyên đã mổ xẻ nhiều vấn đề đang tồn tại hiện nay.
Theo đó, tại buổi tọa đàm ông Triệu Tà Vủi – Bí thư Chi bộ thôn Nậm Hồng thẳng thắn bày tỏ: “Mặc dù thôn đã được phủ sóng di động và truy cập internet so với trước đây tốt hơn, song nhiều điểm trong thôn vẫn gặp tình trạng sóng yếu, đường truyền không ổn định, đường điện yếu, đôi khi mất điện. Điều này ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng cập nhật thông tin theo thời gian thực, livestream lễ hội, hoặc đáp ứng nhu cầu khách đặt phòng qua mạng.
Nhiều hộ, đặc biệt là người cao tuổi, chưa có thiết bị tương thích để sản xuất nội dung chất lượng: không có máy quay/điện thoại có camera tốt, không có micro để thu âm, không có chân máy để ổn định hình ảnh và quan trọng là thiếu giải pháp lưu trữ an toàn (ổ cứng dự phòng, dịch vụ cloud). Hệ quả là nhiều tư liệu giá trị, ví dụ video một buổi Lễ Cấp Sắc hay bản thu âm lời hát Páo Dung, chỉ được lưu rải rác trên điện thoại cá nhân và có nguy cơ mất vĩnh viễn khi thiết bị hỏng”.
![]() |
Theo ông Vủi, sự phân hóa rất rõ rệt giữa thế hệ trẻ và người cao tuổi được thể hiện ở chỗ thanh niên trong thôn thường thành thạo các thao tác cơ bản như chụp ảnh, đăng bài lên Facebook hay Tiktok, thậm chí biên tập video đơn giản. Nhưng nhóm này lại có xu hướng di cư thời vụ hoặc ra thành phố làm ăn, nên không phải lúc nào cũng có mặt để tiếp quản công việc lưu trữ hay tổ chức các hoạt động văn hóa trong cộng đồng.
Còn người lớn tuổi, những người nắm giữ tri thức, nghi lễ và ngôn ngữ truyền thống, lại ít hoặc rất ít tiếp cận công nghệ số. Do vậy, có nghịch lý là những người nắm giữ kiến thức giá trị về văn hóa ít khi được số hoá bởi những người có kỹ năng làm nội dung. Các buổi tập huấn từng được tổ chức theo dự án có tính chất ngắn hạn, thường dừng ở giới thiệu lý thuyết hoặc thực hành mang tính tổng quan; rất ít chương trình đi sâu, “cầm tay chỉ việc” cho từng hộ nhằm xây dựng kỹ năng chỉnh sửa, biên tập, đăng tải nội dung có chất lượng và lưu trữ dài hạn.
Ngoài ra, hiện tại không có một kho tư liệu chung nào của thôn Nậm Hồng hoặc xã Thông Nguyên. Tài liệu, hình ảnh, video và ghi âm văn hóa được lưu rải rác, một phần trên điện thoại của chủ homestay, một phần trên laptop của cán bộ đoàn xã, một phần trên ổ cứng ngoại vi của thanh niên tình nguyện...
![]() |
Đối với địa phương đặc thù là núi đá tai mèo, điều kiện phát triển du lịch cộng đồng có phần khác biệt so với các địa phương vùng thấp. Ông Chu Minh Quang – Giám đốc Trung tâm Dịch vụ công xã Mèo Vạc, kiêm Trưởng Làng Văn hóa du lịch cộng đồng dân tộc Mông thôn Pả Vi Hạ chia sẻ: “Hiện nay, công tác quản lý ở nhiều nơi tại địa phương còn thiếu thống nhất; việc tổ chức và vận hành mô hình du lịch cộng đồng chủ yếu dựa trên kinh nghiệm, chưa có quy chế quản lý rõ ràng.
Thêm vào đó, năng lực chuyên môn của người quản lý và người dân tham gia hoạt động du lịch còn hạn chế, đặc biệt trong các lĩnh vực như đón tiếp khách, quảng bá trực tuyến về văn hóa, vệ sinh môi trường và an toàn thực phẩm…”
![]() |
Ông Quang cho rằng, cơ sở hạ tầng phục vụ du lịch tại nhiều nơi của địa phương ông quản lý còn yếu, đường giao thông, điện, hệ thống nước sạch, xử lý rác thải chưa đáp ứng yêu cầu.
Lấy ví dụ như Làng Văn hóa du lịch cộng đồng dân tộc Mông thôn Pả Vi Hạ, kể từ khi đi vào hoạt động vào tháng 4/2019 đến nay, người dân hoàn toàn phải mua nước chở từ xe téc với giá thành cao, dao động khoảng 70 – 100.000/m3. Dịp Tết khoảng 1.200.000đ/ xe téc 8m3, gây tốn kém và ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động kinh doanh của các hộ trong Làng.
Về bảo tồn văn hóa, một số địa phương chưa chú trọng đúng mức đến việc bảo tồn văn hóa bản địa, dẫn đến nguy cơ mai một các giá trị truyền thống. Việc mời nghệ nhân dân gian tại các thôn ra trình diễn tại Làng gặp nhiều khó khăn do đi lại, các nghệ nhân chưa xem đây là nguồn thu nhập cho gia đình.
Rồi vấn đề tạo sự liên kết giữa cộng đồng với doanh nghiệp lữ hành còn lỏng lẻo, thiếu các sản phẩm đặc trưng, làm giảm tính cạnh tranh của điểm đến.
![]() |
Ông Yasushi Ogura – nhà nghiên cứu người Nhật Bản có nhiều năm tìm hiểu về văn hóa, du lịch vùng Cao nguyên đá cho biết, ông thấy buồn vì nhiều bản làng vùng cao vẫn chưa giữ nguyên được một số giá trị văn hóa truyền thống. Trong đó, có nơi người dân không còn giữ được nếp nhà trình tường cổ xưa, mà thay vào đó họ xây bằng gạch không nung, xây nhà cao tầng bề thế, đổ mái bê tông thay vì lợp ngói âm dương, kể cả ở Làng Lô Lô Chải nhiều lần thôn, xã cũng đã phải vào cuộc vận động tháo dỡ rồi.
“Tôi cũng tâm tư về việc nhiều chủ homestay là người dưới xuôi, mục đích của họ mua đất ở những ngôi làng vùng cao để kinh doanh dịch vụ. Họ lên vùng cao là kiếm tiền, chứ không hiểu sâu về văn hóa cốt lõi của đồng bào nên du khách đến đó chỉ nghỉ dưỡng, chứ không được biết về chiều sâu văn hóa của người dân”, ông Yasushi Ogura nói.
Với việc đoạt nhiều giải thưởng trong và ngoài nước liên tiếp thời gian qua đã khẳng định vị thế và tầm vóc mới của du lịch Tuyên Quang, thể hiện hướng phát triển xanh – bền vững – bản sắc – hội nhập mà tỉnh này đang kiên định theo đuổi.
Mời độc giả đón đọc kỳ tới: Bài 5 (bài cuối) - Khắc phục khó khăn, phấn đấu đưa du lịch trở thành nền kinh tế mũi nhọn
Thực hiện: Phàn Giào Họ
Đồ họa: Giào Họ